Biển Đông và nhu cầu “học thuật hóa”

NGUYỄN CHÍNH TÂM| 02/07/2012 00:10

Bắc Kinh đã cố gắng thông qua kênh “học thuật” cố ý nhiều lần áp đặt, gây ảnh hưởng và phổ biến những quan điểm chủ quyền của mình ra bên ngoài.

Biển Đông và nhu cầu “học thuật hóa”

Trước là lỗi sai trong bản đồ Hoàng Sa của Hội Địa lý Quốc gia Mỹ, sau là vụ lộn xộn của Google Map về lãnh thổ Việt Nam, và gần đây nhất là việc “quốc tế hóa” đường lưỡi bò chín đoạn trên các tạp chí khoa học thế giới, cũng như đưa ra bản đồ từ thế kỷ XIII xuất phát từ chuyến thăm nào đó của một con thuyền Trung Quốc, Bắc Kinh đã cố gắng thông qua kênh “học thuật” cố ý nhiều lần áp đặt, gây ảnh hưởng và phổ biến những quan điểm chủ quyền của mình ra bên ngoài.

Đọc E-paper

Nếu xem khoa học là một công cụ để nhận thức thế giới, thì dựa trên thông tin, bằng chứng chuẩn xác sẽ giúp dẫn đến một nhận định khách quan, đúng đắn. Ngược lại việc lồng vào khoa học những mục đích chính trị tuyên truyền sẽ đưa đến những lệch lạc về góc nhìn.

Hội thảo quốc tế lần thứ ba "Biển Đông: Hơp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực" do Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia Việt Nam đồng tổ chức tại Hà Nội trong hai ngày 4-5/11/2011. Hội thảo thu hút nhiều học giả trong nước và nước ngoài tham dự

Trong cuộc chiến tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông hiện nay, để có thể giữ vững “chủ quyền” trên mặt trận thông tin - tuyên truyền, một chiến lược về “học thuật hóa” đang cần được khởi động.

Trận chiến “học thuật hóa” và bất đối xứng về lượng

Hiện nay chưa có một thống kê có hệ thống hay một nghiên cứu mang tính định lượng nào về tình hình nghiên cứu Biển Đông tại Việt Nam lẫn Trung Quốc.

Theo một số học giả ước tính, lực lượng nghiên cứu về Biển Đông của Việt Nam và Trung Quốc chênh lệch rất lớn và số lượng giáo sư, tiến sĩ người Trung Quốc (hoặc có gốc Trung Quốc) nghiên cứu về Biển Đông tại các trường đại học trên thế giới là khá nhiều.

Theo Ths Hoàng Việt, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh thì số lượng các tạp chí nghiên cứu về Biển Đông của Trung Quốc tính đến 23/9/2010 là 23.527. Số luận văn tiến sĩ từ 1999-2010 vào khoảng 238. Số hội thảo từ 1999-2010 vào khoảng 516. Trong khi đó, ở Việt Nam, các ấn phẩm nghiên cứu Biển Đông ít khi được các tạp chí chuyên ngành trong nước đăng tải.

Những người nghiên cứu sâu về Biển Đông và tranh chấp Biển Đông ở Việt Nam không nhiều. Một số ít trong số đó được đào tạo tại nước ngoài. Trong vài năm qua, Việt Nam cũng không có luận văn tiến sĩ nào chuyên sâu về Biển Đông, trong khi Trung Quốc có tới 36 luận văn (theo thông tin từ Hội thảo “Tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông: Lịch sử, địa chính trị và luật pháp quốc tế”, 2011).

Còn hội thảo kênh chính thức từ phía Việt Nam thì chỉ có thể kể tới Hội thảo quốc gia về Biển Đông do Chương trình nghiên cứu Biển Đông, Học viện Ngoại giao, đã tổ chức được hai lần (2009, 2011). Hay một hội thảo khác do Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia Việt Nam đồng đăng cai mang tên “Hội thảo quốc tế về Biển Đông”, đã tổ chức được ba năm liên tục từ 2009-2011.

Khảo sát của học giả Phạm Hoàng Quân cho biết, từTrung ương đến địa phương, Trung Quốc sở hữumột lực lượng các cơ quan nghiên cứu hùng hậu. Như ở Bắc Kinh có một viện nghiên cứu rất lớn chuyên nghiên cứu về Biển Đông được gọi là “Viện nghiên cứu Nam Hải Trung Quốc”. Hay “Sở nghiên cứu Nam Hải” thuộc Viện khoa học xã hội Trung Quốc.

Ở các tỉnh ven biển như Quảng Đông hay Phúc Kiến, đều có khá nhiều cơ quan nghiên cứu về biển đảo, và đã xuất bản rất nhiều công trình về Biển Đông. Về sách và các công trình nghiên cứu khác thì theo thông tin từ trang web của Viện nghiên cứu Nam Hải Trung Quốc, từ những năm 1980 số sách nghiên cứu về các khía cạnh luật pháp và chính trị liên quan đến Biển Đông ở Trung Quốc vào khoảng 14 cuốn sách, đều đươc dịch ra tiếng Anh và được cập nhật trên các trang điện tử của các tổ chức nghiên cứu (cập nhật từ 1981-2007).

Tại Viện nghiên cứu Nam Hải Trung Quốc, các công trình nghiên cứu chính có vào khoảng 16 công trình (từ 1999-2006). Trong khi đó, việc nghiên cứu về Biển Đông của Việt Nam gần như “lép vế” hoàn toàn khi ngay tại những viện nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam như Viện Sử học, Viện Nhà nước và Pháp luật, hay các trường đại học lớn ở Việt Nam gần như không có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về Biển Đông.

Xét về kinh phí nghiên cứu, Vụ Khoa học Xã hội và Tự nhiên (Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam) có chương trình trọng điểm cấp Nhà nước mang tên “Khoa học công nghệ biển phục vụ phát triển bền vững kinh tế - xã hội” (KC.09/06-10).

Theo số liệu do Vụ cung cấp, từ năm 2006 đến 2010, Chương trình đã cấp kinh phí cho 28 đề tài với mức tài trợ từ 4-6 tỉ đồng/đề tài. Dự kiến trong giai đoạn 2011-2015, mức tài trợ cho một đề tài nghiên cứu có thể lên đến mức 5-7 tỉ đồng. Hầu hết các đề tài được phê duyệt có đối tượng nghiên cứu là các điều kiện tự nhiên như đánh giá nguồn lợi hải sản, điều kiện kiến tạo địa chất Biển Đông, nghiên cứu ứng dụng phương án xây dựng công trình trên các đảo, đá thuộc quần đảo Trường Sa.

Tổng kinh phí cho hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2006-2010 của Tổng cục Biển và Hải đảo (Bộ Tài nguyên và Môi trường) vào khoảng 7,6 tỉ đồng. Trong khi đó, chỉ tính riêng dự án “Biển Đông sâu thẳm” của Quỹ Khoa học tự nhiên quốc gia Trung Quốc đã được tài trợ lên tới 22 triệu USD. Còn dự án xây dựng mạng lưới đài quan sát dưới đáy đại dương được đầu tư tới 200 triệu USD. Trong khi các dự án này chỉ là một phần trong rất nhiều dự án nghiên cứu Biển Đông của Trung Quốc.

Sự bất đối xứng về số lượng người nghiên cứu, số lượng cơ quan nghiên cứu, số lượng nghiên cứu và mức độ đầu tư cho nghiên cứu Biển Đông giữa hai nước đã lý giải phần nào tại sao độ phổ biến các chứng cứ khoa học của Việt Nam vẫn còn hạn chế.

Sự tràn ngập của các ấn phẩm và các nghiên cứu của Trung Quốc, đặc biệt khi được dịch sang tiếng Anh và phát hành trên tất cả hệ thống thư viện thế giới sẽ nguy hiểm cho việc xây dựng “nhận thức chung” của cộng đồng quốc tế về vấn đề tranh chấp Biển Đông.

Quý hồ tinh bất quý hồ đa

Trong khi tranh luận về Biển Đông, không thể “ăn thua” về lượng xuất bản phẩm hay sự hiện diện đông đảo tại các diễn đàn - hội nghị quốc tế, thì chìa khóa vàng mà giới khoa học Việt Nam đang sở hữu chính là tính “hợp lý hơn” của lý lẽ.

Một lập luận có tính hợp lý hơn không những tạo sự chính đáng cho các quan điểm, mà còn là một tiền đề quan trọng góp phần xây dựng kiến thức chung về vấn đề tranh cãi. Như về chủ quyền lịch sử hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nguyên trưởng Ban Biên giới của Chính phủ Việt Nam Lưu Văn Lợi từng nhận xét rằng từ phía Trung Quốc không có một quyển sách sử nào đề cập đến hai cái tên Xisha (Tây Sa) và Nansha (Nam Sa), cũng như chủ quyền của Trung Quốc tại đây.

Một biên khảo khác của tác giả Từ Đặng Minh Thu (Đại học Sorbonne) đi đến kết luận, khác với chứng cớ lịch sử của Việt Nam chứng minh chủ quyền lịch sử trên hai vùng đảo này đã được khám phá (ít nhất là từ thế kỷ XV) và khẳng định liên tục (trong suốt thế kỷ XVIII) qua sự khai thác và quản trị của hai đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải của triều đình nhà Nguyễn, thì những tài liệu từ phíaTrung Quốc không thể hiện rõ ràng một lộ trình như vậy, dẫu có chăng là tình cờ thấy hay khám phá thì cũng không đủ điều kiện để chứng minh việc “hành xử chủ quyền” trên những vùng đất đó.

Rõ ràng, sự yếu thế về mặt chứng cứ lịch sử là lý do chính khiến Bắc Kinh cương quyết phủ định giải pháp đưa tranh chấp ra Tòa án Quốc tế hay Liên Hiệp Quốc.

Mặt khác, vấn đề tranh chấp hiện tại đang đi vào một khúc quanh pháp lý rất quan trọng, mà điểm đầu tiên của mọi câu chuyện là phải làm sao định nghĩa lại những khái niệm cần giải quyết. Một trong những thí dụ điển hình cho sự gia tăng mâu thuẫn tại khu vực là sự bất đồng về cách hiểu, định nghĩa và diễn dịch những điều khoản trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS).

Chẳng hạn như vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Dưới góc nhìn của Bắc Kinh, thỏa hiệp giữa quyền kinh tế của quốc gia ven biển và quyền vận chuyển quá cảnh của các nước nên được thay thế bằng nâng cấp mức độ EEZ tương đương với quy chế lãnh hải, nơi nước ven biển được hành xử chủ quyền một cách không giới hạn. Điều này khác với góc nhìn của nhiều nước khác trong vùng.

Hay như cuộc tranh luận về bản chất tự nhiên của các đảo ở Trường Sa và Hoàng Sa để áp dụng điều 121 của UNCLOS cho thấy các vấn đề pháp lý, địa lý và quan hệ quốc tế lồng ghép vào nhau khiến không có một đề nghị nào được xem là “chuẩn mực”. Không có một cách tiếp cận nhiều chiều từ những quan điểm khác nhau sẽ khiến một đồng thuận khó trở thành hiện thực.

Nếu đang “nắm dao đằng chuôi” về lý lẽ, thì cái cần suy nghĩ là làm sao tiếp tục lan tỏa sức mạnh này.

Các “mạng lưới trao đổi ý tưởng” cần phải được khuếch tán bằng nhiều kênh khác nhau nhắm vào hai mục tiêu chính. Nhìn từ góc độ “vĩ mô” là thiết lập cầu nối giữa “kiến thức và chính sách” theo ý nghĩa chuyên môn hóa quá trình hoạch định chính sách quốc gia bằng và dựa trên khoa học.

Lập luận trên bàn đàm phán, hay trên các mặt trận thương thuyết, những kiến thức hợp lý sẽ làm bàn đạp cho những yêu cầu về chủ quyền, khiến cho những yêu sách của phía bên kia, nếu không có những luận chứng vững chãi hậu thuẫn, sẽ trở nên kệch cỡm hoặc không thể thuyết phục.

Kinh nghiệm các cuộc đàm phán trên thế giới đã chứng minh, học thuật hay những sản phẩm phát minh và trao đổi từ các học giả góp phần rất nhiều vào việc thay đổi góc nhìn của các bên. Phân tích trên góc độ “vi mô”, “học thuật hóa” vấn đề Biển Đông góp phần tạo thành nhận thức chung cho cộng đồng, nhất là khi hiện nay nhu cầu “hiểu và thấu hiểu” về vấn đề Biển Đông cần thiết hơn bao giờ hết.

Các đầu óc lớn thường gặp nhau trên ý tưởng, vì vậy cần phải có những cầu nối để các ý tưởng này tìm đến nhau. Một xã hội “giàu ý tưởng, giàu thông tin” sẽ là một xã hội mạnh, vì từng thành viên có thể tự đánh giá, nhận xét và quyết định các lựa chọn cá nhân, cũng như phản đối hay ủng hộ các quyết định của cộng đồng.

Khoa học có tính lan tỏa, trong đó một trong những đặc tính dễ nhận thấy nhất là sự lan tỏa cái đúng, cái hợp lý và logic, những yếu tố sẽ đóng vai trò bệ phóng cho cuộc đấu tranh chủ quyền của chúng ta tại Biển Đông.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đọc nhiều
Biển Đông và nhu cầu “học thuật hóa”
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO