Báo cáo cập nhật kinh tế khu vực Đông Á và Thái Bình Dương được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố sáng nay, 19/10, đã bớt lạc quan hơn đối với một số chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng, so với nhận định cũng được tổ chức này đưa ra hồi đầu tháng 6 năm nay.
Điều chỉnh dự báo
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu và bà Victoria Kwakwa - Giám đốc WB tại Việt Nam. |
Về chỉ tiêu tăng trưởng GDP, vào tháng 6/2010, WB còn cho rằng Việt Nam sẽ có một năm tương đối thành công với tăng trưởng đạt mức 7%. Tuy nhiên, với lần cập nhật này, báo cáo của WB cho rằng, GDP chỉ “đang trên đà đạt được mục tiêu 6,5% của năm 2010”.
Về lạm phát, WB dự báo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam năm nay sẽ chỉ tăng khoảng 8%, giảm nhẹ so với con số tính toán trước đó là 9%, được nêu ra vào tháng 6 năm nay.
Ở các cân đối vĩ mô khác, dự báo cán cân thương mại năm nay của Việt Nam đã được WB điều chỉnh từ mức thâm hụt 9,5 tỷ USD (trong báo cáo tháng 6) lên mức 10,8 tỷ USD trong bản cập nhật. Chỉ tiêu này dự kiến còn cao hơn trong năm 2011, ở mức 11,4 tỷ USD.
Kết quả là, cán cân vãng lai cũng tăng thêm mức thâm hụt, tương ứng từ 9,1 tỷ USD lên mức 9,3 tỷ USD và dự kiến sẽ giữ nguyên trong năm tới.
Ngược lại, theo WB, tình hỉnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam năm nay có thể sẽ cải thiện hơn, khi được dự báo tăng từ mức 7,3 tỷ USD lên 7,6 tỷ USD trong báo cáo cập nhật.
Những ước tính của WB cũng cho thấy, có khả năng cán cân thanh toán năm nay sẽ thặng dư, khiến dự trữ ngoại hối có thể tăng thêm 2,3 tỷ USD, từ mức 15,2 tỷ USD vào cuối năm 2009 lên 17,5 tỷ USD trong năm nay, tương đương 11,4 tuần nhập khẩu.
Nhanh, nhưng không đều
Nhận định khái quát về tình hình kinh tế, báo cáo của WB cho rằng, sự phục hồi kinh tế của Việt Nam là nhanh chóng nhưng không đồng đều.
Tốc độ tăng trưởng của những chỉ số kinh tế chủ chốt như GDP, sản xuất công nghiệp, đầu tư và xuất khẩu đang được trông đợi sẽ phục hồi gần tốc độ tăng trưởng thời kỳ trước khủng hoảng. Tuy nhiên, WB cho rằng thâm hụt tài khoản vãng lai vẫn ở mức cao, và các hộ gia đình cũng như các công ty dường như vẫn tiếp tục trữ vàng và ngoại tệ, gây áp lực liên tục cho đồng nội tệ.
“Các gia đình và công ty tiếp tục duy trì lượng lớn ngoại tế, chứ không phải tiền đồng… Áp lực lên nội tệ là lớn”, ông Deepak Mishra, Kinh tế trưởng WB tại Việt Nam lưu ý.
Theo vị chuyên gia này, bản thân tỷ giá hiện nay không phải chịu áp lực quá lớn. Những chứng cứ riêng lẻ cho thấy, các công ty chế tạo đang từng bước phân bổ lại vị trí nhà máy từ những nước đòi hỏi mức lương cao ở khu vực Đông Á và điều này đã bắt đầu mang lại lợi ích cho Việt Nam, nơi đòi hỏi mức lương thấp và giáp biển, được đặt vị trí thuận lợi để thu hút các nguồn đầu tư này.
Tuy nhiên, rất khó dự đoán được hành vi của các hộ gia đình và doanh nghiệp đối với đầu tư ngoại tệ. “Điều này phụ thuộc vào niềm tin của họ và chính sách của Chính phủ trong thời gian tới”, ông Deepak Mishra nói với báo giới.
Đối với hệ thống tín dụng, báo cáo của WB lưu ý: “Có nhiều mối quan ngại rằng sự mở rộng quá nhanh của tín dụng trong nước nhằm kích thích nền kinh tế đã dẫn đến sự yếu kém trong cân đối tài sản của một số ngân hàng”.
Một sự hiệu chỉnh giảm dần gói kích cầu đang được tiến hành, thông qua việc rút một số gói tài trợ trực tiếp từ ngân sách cũng như một số gói kích thích tiền tệ. Chủ trương tăng vốn tối thiệu cho ngân hàng cũng được ban hành, dù còn vấp phải những phản đối từ phía các tổ chức chịu tác động từ chính sách này.
Theo dự báo của WB, tăng trưởng tín dụng cả năm 2010 có thể ở mức dưới 25%, thấp hơn so với chỉ tiêu đặt ra trước đó. Đây cũng là mức tăng trưởng khá thấp so với 3-4 năm trở lại đây.
Trong khi đó, thị trường chứng khoán, sau sự phục hồi đáng kể trong năm 2009, đã sụt giảm trở lại và tiếp tục gây ảnh hưởng xấu cho nền kinh tế…
Về góc nhìn của cộng đồng đầu tư quốc tế, báo cáo dẫn chứng, lãi suất trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ của Việt Nam vẫn dao động ở mức cao, xung quanh 400 điểm cơ bản (mức tăng thêm so với LIBOR theo giải thích của đại diện WB) và cao hơn hầu hết các nước trong khu vực. WB cho rằng, nguyên nhân là do các nhà đầu tư còn quan ngại về khả năng “hạ cánh an toàn” của Việt Nam hậu khủng hoảng, dù nền kinh tế đã lấy lại được động lực tăng trưởng của giai đoạn trước đó.
Cần cải cách doanh nghiệp nhà nước
Theo WB, việc thành lập thí điểm các tập đoàn kinh tế nhà nước nhằm tạo lợi thế về quy mô sản xuất và công nghệ, cũng dẫn đến việc một số doanh nghiệp làm cho sự mất ổn định kinh tế ngày càng rộng thêm, như vụ việc của tập đoàn Vinashin.
Theo bà Victoria Kwakwa, Giám đốc WB tại Việt Nam, việc sử dụng nguồn lực quá thoải mái dẫn tới sử dụng không hiệu quả của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Bà cho rằng cần có cơ chế kiểm soát việc sử dụng vốn và tính hiệu quả của các nguồn lực đất nước được trao vào tay các tập đoàn kinh tế. Cao hơn nữa là vấn đề quản trị doanh nghiệp và giảm thiểu rủi ro.
“Vấn đề lớn là làm thế nào để các tập đoạn có hiệu quả và đừng để xảy ra những vụ như Vinashin nữa”, bà Victoria Kwakwa nói.
Liên quan đến lo ngại về phân biệt thành phần kinh tế quốc doanh và tư nhân, bà nói: “Tôi thấy sân chơi vẫn đang chờ đợi để tạo ra khoảng cách bình đẳng hơn. Trong khi khối quốc doanh đang được hưởng nhiều nguồn lực vốn, đất đai..., thì việc điều tiết nằm trong tay các cơ quan chức năng”.