Nhận định mới đây của công ty nghiên cứu và tư vấn Jones Lang LaSalle Việt Nam (JLL Việt Nam) cũng cho thấy, tại Việt Nam, cùng với sự phát triển không ngừng của điện thoại thông minh và mức độ phủ sóng mạng 4G ngày càng mở rộng, doanh thu từ hoạt động mua sắm trực tuyến liên tục gia tăng. Theo đó là áp lực ngày càng tăng lên hệ thống logistics, chuỗi cung ứng, các kênh phân phối và bán lẻ, cũng như hệ thống nhà xưởng/nhà kho.
Theo khảo sát của KPMG - “Sự thật về người tiêu dùng trực tuyến”, người tiêu dùng Việt Nam thích sự tiện lợi của tính năng so sánh giá, các đợt giảm giá trực tuyến và các gói dịch vụ sản phẩm được chào bán với mức giá tốt hơn trên các trang chuyên bán lẻ trực tuyến như Amazon, Lazada và Tiki.
Các thương hiệu bán lẻ trực tuyến lớn không ngừng cải thiện mình để có thể cung cấp những trải nghiệm mua sắm tốt hơn cho khách hàng. Thị trường thương mại điện tử Việt Nam ghi nhận được những thương vụ lớn như Alipay của tỷ phú Jack Ma - nhà sáng lập của Alibaba bắt tay với Tổng công ty Thanh toán quốc gia Việt Nam (NAPAS). Trong khi đó, cổng thông tin thương mại điện tử nội địa Tiki đã nhận được 44 triệu USD đầu tư từ JD.com - đối thủ cạnh tranh của Alibaba. Bên cạnh đó năm 2016, Central Group đã thâu tóm Zalora Việt Nam và chính thức đổi tên thành Robins Việt Nam.
Logistics là phần không thể thiếu trong việc phát huy toàn bộ tiềm năng và sự phát triển thành công của thị trường thương mại điện tử. Nhiều nhà cung cấp dịch vụ logistics và vận hành thương mại điện tử nước ngoài đang rất nỗ lực để không bỏ lỡ cơ hội thâm nhập thị trường Việt Nam. Sự ra đời của Công ty Cổ phần Phát triển Công nghiệp BW tại Việt Nam, một liên doanh giữa Quỹ đầu tư toàn cầu Warburg Pincus và nhà đầu tư Becamex IDC vào tháng 1/2018 có thể xem là một dấu hiệu cho thấy tiềm năng to lớn của thị trường này.
Ở lĩnh vực xuất nhập khẩu, nghiên cứu gần đây của FedEx Express, công ty con của FedEx Corp. cũng cho thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam rất lạc quan về triển vọng xuất nhập khẩu. Có đến 87% công ty có lượng xuất khẩu ổn định hoặc tăng trong năm qua, tạo ra doanh thu trung bình 23.648 triệu đồng, chiếm gần một nửa (48%) tổng doanh thu của doanh nghiệp.
Cứ 10 doanh nghiệp nhỏ tại Việt Nam thì có 8 doanh nghiệp (80%) hiện đang có mặt hàng xuất khẩu sang các thị trường ngoài khu vực châu Á - Thái Bình Dương, cao hơn mức trung bình của APAC là 71%. Khoảng 57% lạc quan và tin rằng họ sẽ tiếp tục tăng xuất khẩu sang các thị trường ngoài khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong năm tới.
Đồng thời, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam thậm chí còn lạc quan hơn về xuất khẩu trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, với dự đoán tăng trưởng gần hai phần ba (62%) doanh thu trong những tháng tới. Một nửa (50%) các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam đang nhập khẩu từ các thị trường khác với quy mô gần bằng lượng xuất khẩu trong nước.
Sự đa dạng và chất lượng cao cấp của sản phẩm là hai trong số những lợi ích được quan tâm nhiều nhất của hàng hóa nhập khẩu. Mặc dù nguyên liệu thô và linh kiện dẫn đầu danh sách hàng nhập khẩu, các dịch vụ và thiết kế chuyên nghiệp vẫn luôn sát sao đuổi theo cho thấy sự ngày càng phổ biến của các thị trường trực tuyến thương mại điện tử hiện nay.
Ông Hardy Diec - Tổng giám đốc FedEx Express Indochina cho biết. "Sự lạc quan mạnh mẽ từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam cho thấy họ đang tìm cách thúc đẩy hơn nữa tăng trưởng xuất nhập khẩu trên cả thị trường nội địa và thế giới. Tuy nhiên, công nghệ mới là một yếu tố quan trọng khác trong tác động kinh doanh".
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực APAC đang khai thác và sử dụng rộng rãi các công nghệ mới của nền công nghiệp 4.0 để mở rộng hoạt động kinh doanh của họ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ của khu vực APAC có sự lạc quan về việc tăng cường áp dụng các công nghệ này, bao gồm thanh toán di động, dữ liệu lớn hoặc phân tích nâng cao, tự động hóa phần mềm, trong 12 tháng tới.
43% các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam chỉ ra rằng động lực chính của họ trong việc áp dụng các công nghệ mới này là để nâng cao hiệu quả trong chuỗi cung ứng và các kênh phân phối, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh doanh. 9 trên 10 doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đang áp dụng thương mại điện tử, thương mại di động và mạng xã hội thương mại và 76% mong đợi các kênh này sẽ tiếp tục tăng trưởng trong những năm tới.
Tuy triển vọng nhưng so với các nước khác trong khu vực, thị trường logistics Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn sơ khai, chủ yếu cung cấp các sản phẩm có tiêu chuẩn kỹ thuật thấp, phát triển tại khu vực xa trung tâm. Với tiềm năng phát triển của ngành thương mại điện tử và lĩnh vực sản xuất, thị trường logistics Việt Nam được mong đợi sẽ bước lên một nấc thang mới trong tiến trình phát triển, tương tự như tiến trình mà các thị trường khác trong khu vực đã trải qua.
Mặc dù mức chi tiêu cho việc phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam tương đối cao so với các nước trong khu vực, việc phát triển được một hệ thống hạ tầng kết nối đồng bộ và xuyên suốt vẫn còn là một chặng đường dài đối với Việt Nam. Vẫn có nhiều dự án giao thông vận tải bị chậm tiến độ do sự chậm trễ trong công tác bồi thường và giải phóng mặt bằng, huy động vốn cũng như mô hình hợp tác công – tư (PPP) chưa đem đến được nhiều thành công như mong đợi.
Mặc dù việc Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) trong năm 2017 đã loại bỏ nhiều cơ hội thương mại to lớn, nhưng sự tăng trưởng của Việt Nam vẫn được dự đoán sẽ đứng vững nhờ vào xuất khẩu mạnh.
Tuy nhiên, quy trình giao thương xuyên biên giới của Việt Nam bao gồm cả về thời gian và chi phí vẫn còn cần nhiều cải tiến đáng kể. Theo báo cáo “Doing Business 2018” của World Bank, hiện Việt Nam đang mất 105 giờ để xuất khẩu sản phẩm có lợi thế so sánh và 132 giờ để nhập khẩu phụ tùng ô tô, dài hơn đáng kể so với 62 giờ đối với xuất khẩu và 54 giờ nhập khẩu tại Singapore.
Chi phí giao dịch qua biên giới, bao gồm chi phí tuân thủ tài liệu thủ tục và chi phí xuất nhập khẩu, ở Việt Nam kém cạnh tranh hơn so với hầu hết các nước trong khu vực. Trong tổng số, chi phí tuân thủ tài liệu thủ tục chiếm hơn 30% so với chỉ 10-15% ở các nước phát triển như Singapore.
Theo Chỉ số cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) năm 2017-2018, Việt Nam đạt mức tăng tương đối khiêm tốn, hạng 55 và theo sát sau là Philippines (hạng 56). Tuy vậy, Việt Nam vẫn cần nỗ lực để đạt được cải tiến trên tất cả các phương diện, đặc biệt là ở các chỉ số trong Nhóm các yêu cầu căn bản (thứ 75), đặc biệt là hạng mục Giáo dục Đại học và đào tạo (thứ 84) trong bối cảnh việc thiếu lực lượng lao động có trình độ cao đang là trở ngại cho hoạt động kinh doanh.
Ông Hardy Diec cũng cho rằng, thách thức chung trong các hình thức thông quan, ngoại hối và vận tải vẫn tiếp tục là trở ngại cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong việc xây dựng và mở rộng kinh doanh ra toàn cầu. Ở các khu vực, có sự nhất trí chung giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc các nhà cung cấp dịch vụ logistics có thể hỗ trợ nhiều hơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi việc xuất khẩu đang ngày càng trở nên khó khăn.
Cụ thể, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam cho biết họ đang tìm kiếm các lựa chọn vận chuyển khác nhau bao gồm các chuyến hàng chậm bằng đường biển (83%) hoặc đường bộ (17%) bên cạnh các chuyến hàng chuyển phát nhanh bằng đường hàng không (71%).