Một nhà máy khai thác khí tự nhiên và đường ống trên mặt đất ở Groningen, Hà Lan. Ảnh: Cris Toala Olivares/Getty Images |
Theo Alice Stollmeyer - nhà sáng lập tổ chức tư vấn Bảo vệ Dân chủ ở The Hague và Lukas Trakimavicius - chuyên gia tại Trung tâm An ninh Năng lượng NATO, Groningen - một trong những mỏ khí đốt có trữ lượng hàng đầu thế giới ở nước này, có tiềm năng giúp châu Âu giảm phụ thuộc nguồn cung từ Nga.
Euractiv dẫn ý kiến của 2 vị chuyên gia cho biết Groningen có trữ lượng khoảng 450 tỷ m3, tương đương 3 năm châu Âu nhập khẩu khí đốt từ Nga. Groningen hiện là mỏ khí đốt lớn nhất châu Âu và là một trong các mỏ lớn hàng đầu thế giới.
Tài liệu từ Diễn đàn Các nước Xuất khẩu Khí đốt (GECF) cho biết, từ khi được phát hiện vào năm 1959, Groningen đã là một trong những nguồn cung khí đốt chính của lục địa già. Nhưng từ thập niên 1980, chính phủ Hà Lan đã phải giảm dần công suất khai thác do nhiều trận động đất xảy ra xung quanh khu vực mỏ liên quan đến hoạt động khoan thăm dò.
Dù động đất không gây thiệt hại về người, nhưng những năm qua đã gây thiệt hại hơn 1 tỷ EUR về cơ sở hạ tầng. Theo Euractiv, đến giữa thập niên 2010, mỏ Groningen vẫn bơm khoảng 30 tỷ m3 khí đốt mỗi năm, song đã ngừng khai thác cách đây vài năm.
Năm 2019, Bộ Kinh tế và Chính sách Khí hậu Hà Lan đã thông báo sẽ chỉ khai thác mỏ Groningen trong những ngày mùa đông đặc biệt lạnh. Quyết định này có hiệu lực từ năm 2022, với mục tiêu cuối cùng là đóng cửa hoàn toàn mỏ vào năm 2026. Do đó, Groningen dự kiến chỉ sản xuất 4,6 tỷ m3 khí đốt trong năm nay
Cho đến nay, chiến sự Nga - Ukraine và cuộc khủng hoảng năng lượng kéo theo từ nó không ảnh hưởng nhiều đến tính toán của Hà Lan. Dẫn nhiều lo ngại liên quan đến yếu tố an toàn tại khu vực mỏ, giới chức Hà Lan cũng tuyên bố chỉ cân nhắc tăng sản lượng khai thác ở Groningen khi tất cả quốc gia Bắc Âu kích hoạt giai đoạn 3 của kế hoạch khí đốt khẩn cấp (về cơ bản là buộc phải phân bổ khí đốt theo định mức).
Hai lý do để Hà Lan ra tay cứu châu Âu
Theo bà Stollmeye và ông Trakimavicius, dù sự thận trọng của chính phủ là điều dễ hiểu, có những lý do thuyết phục để Hà Lan sớm xem xét tăng sản lượng ở Groningen.
Thứ nhất, nếu Groningen không tăng sản lượng trong những tháng tiếp theo, châu Âu có thể phải đối mặt với một mùa đông rất khắc nghiệt.
Để có thể vượt qua mùa đông đầu tiên không có khí đốt Nga, châu Âu cần bổ sung lượng khí dự trữ càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, điều này không dễ thực hiện khi Nga đã hạn chế xuất khẩu khí đốt sang châu Âu và công suất dự phòng của các nhà cung cấp đường ống thay thế rất ít.
Hơn nữa, khó có thể cho rằng chỉ riêng việc nhập khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) có thể lấp đầy khoảng trống do Nga để lại. Về nguồn cung, thị trường LNG đang rất khan hiếm. Sau khi nhà xuất khẩu khí đốt hàng đầu của Mỹ là Freeport LNG ngừng hoạt động, châu Âu càng khó khăn hơn trong việc đảm bảo các lô hàng LNG.
Thứ hai, việc Nga cắt toàn bộ nguồn cung là điều hoàn toàn có thể xảy ra, và có rất ít lý do để tin rằng Nga sẽ không làm như vậy.
Do đó, điều quan trọng là châu Âu phải chuẩn bị cho tình huống xấu nhất và bắt đầu chuẩn bị khi vẫn còn thời gian. Nếu không, hậu quả từ việc Moskva đột ngột cắt hết nguồn cung cho châu Âu khi mùa đông đến sẽ là rất lớn. Trong kịch bản đó, châu Âu sẽ phải gánh giá năng lượng thậm chí còn cao hơn, lạm phát tăng vọt và cả rủi ro suy thoái.
Dù vậy, 2 vị chuyên gia lưu ý rằng Groningen không phải "viên đạn bạc" để giải quyết triệt để khủng hoảng năng lượng châu Âu. Dù có trữ lượng lớn, những vấn đề về kỹ thuật và an toàn khiến việc đẩy nhanh sản lượng khai thác ở mỏ này là một thách thức lớn. Do đó, kịch bản tốt nhất có thể kỳ vọng trên thực tế là tăng sản lượng tại Groningen lên bằng mức 3-4 năm trước, khi nơi này khai thác khoảng 8-17 tỷ m3 mỗi năm.
Dù có trữ lượng lớn, nhưng Groningen không phải "viên đạn bạc" để giải quyết triệt để khủng hoảng năng lượng châu Âu. Ảnh: Shutterstock/Rudmer Zwerver |
Điều quan trọng nhất mà Groningen có thể làm cho châu Âu là kéo dài thời gian để đa dạng hóa nguồn cung năng lượng thông qua phát triển cơ sở hạ tầng nhập LNG mới. Đồng thời, nó cũng mang lại cho các nhà hoạch định chính sách cơ hội giảm nhu cầu khí đốt tự nhiên của châu Âu thông qua các sáng kiến năng lượng khác (máy bơm nhiệt, cách nhiệt của các tòa nhà...) và tăng tốc triển khai các nguồn năng lượng tái tạo.
Theo Stollmeye và Trakimavicius, khi xem xét tất cả yếu tố, sẽ là khôn ngoan nếu coi Groningen là một vấn đề của quốc gia và châu lục. Trong trường hợp sản lượng khí đốt ở Groningen được đẩy mạnh, một quỹ bồi thường đặc biệt có thể được thành lập để đẩy nhanh việc củng cố nhà cửa và trang trải cho thiệt hại có thể xảy ra.
"Rốt cục, người dân ở Groningen mới là người quyết định có chấp nhận để nhà cửa của mình chịu rủi ro hay không. Tuy nhiên, họ cũng nên nhớ rằng lần đầu tiên trong lịch sử, số phận của cả châu Âu có thể đang nằm trong tay họ", 2 vị chuyên gia nói.