Việt Nam 40 năm sau đổi mới: Kinh tế TP.HCM, từ xé rào đến công cuộc đổi mới (Bài 1)
LTS - Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV diễn ra từ ngày 19-25/1/2026 tại Hà Nội. Trong chương trình nghị sự của Đại hội, Đảng ta sẽ thảo luận về Báo cáo tổng kết 40 năm Đổi mới, trong đó nêu rõ bối cảnh và thử thách của đất nước trước năm 1986 dẫn đến công cuộc cải cách toàn diện để rồi sau 40 năm, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật toàn diện. Bài viết của chuyên gia Phan Thế Hải sẽ giúp bạn đọc có góc nhìn tổng quát về hành trình và thành tựu của Việt Nam sau 40 năm đổi mới.
Sau tháng 4/1975, cùng với niềm vui đất nước thống nhất nhưng Sài Gòn (TP.HCM) cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn chồng chất: Khoảng 4 triệu dân lâm vào cảnh thiếu lương thực, hàng hóa khan hiếm, lạm phát tăng cao, kinh tế bế tắc, cuộc chiến biên giới Tây Nam cũng nổ ra...
Thời điểm này, toàn bộ mạng lưới gồm các chủ chành, chủ vựa gạo ở miền Tây bị xóa bỏ, thay bằng các công ty mậu dịch quốc doanh. Tuy nhiên, giá mua của nhà nước khi đó “thấp như cho”, nông dân miền Tây đầy ắp lúa gạo nhưng không chịu bán. Chính quyền có tiền cũng không được mua gạo theo giá thoả thuận vì dễ bị quy vào tội đi ngược chủ trương của Nhà nước thời bao cấp.
Lúc đó, Bộ Lương thực có trách nhiệm cung cấp gạo cho Thành phố nhưng chưa bao giờ cung cấp đủ và kịp thời. Sở Lương thực thì không được phép mua với giá thoả thuận. Dân miền Tây đầy gạo nhưng không chịu bán giá nghĩa vụ cho Nhà nước vì họ bị thiệt. Trong khi đó, dân thành phố có tiền và sẵn sàng mua với giá thoả thuận lại không được xuống mua. Từ Thành phố về miền Tây vẫn duy trì hàng trăm trạm kiểm soát để ngăn cản lưu thông hàng hóa. Cung và cầu bị cách trở, không thể gặp nhau.
Với vai trò Bí thư Thành ủy TP.HCM lúc bấy giờ, ông Võ Văn Kiệt rất trăn trở. Ông đứng trước hai lựa chọn: Chấp hành giá thu mua của nhà nước hoặc “phá rào” tìm cách mua gạo về cứu đói. Trong cuộc họp giao ban ở Thành ủy, ông Kiệt đặt câu hỏi thẳng thắn: Tại sao chúng ta không ráp hai mối này lại? và ông quyết định "xé rào".
Để đảm bảo an toàn cho việc “xé rào”, một tổ thu mua gạo ra đời, gồm cán bộ kế toán, ngân hàng, vận tải... do bà Ba Thi làm tổ trưởng, ông Võ Văn Kiệt đứng ra chịu trách nhiệm về chủ trương để các đơn vị thực hiện. Tổ hoạt động liên tục từ năm 1979 đến 1982, khi đời sống người dân Sài Gòn ổn định mới dừng.

Cùng với gạo là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống cũng lâm vào cảnh khan hiếm. Giai đoạn này, TP.HCM còn đối mặt với thiếu hụt nguồn vật tư nguyên liệu nhập khẩu khiến đầu vào của toàn bộ nền sản xuất suy giảm, kéo theo khủng hoảng về hàng hoá, lao động. Ông Kiệt lại bàn với lãnh đạo Thành phố tìm cách nhập khẩu một số nguyên liệu cần thiết phục vụ sản xuất.
Theo đó, Thành phố đưa ra sáng kiến sử dụng các thương nhân, chủ yếu là người Hoa, đứng ra thu gom mặt hàng có thể xuất khẩu để trao đổi trực tiếp với Hồng Kông, Singapore. Công thức “hàng đổi hàng” tiếp tục được vận dụng. Giá cả tính ra USD và trao đổi bằng hiện vật, Việt Nam lấy mực khô tôm khô, lạc, đỗ để đổi lấy sợi thuốc lá, sợi dệt, xăng dầu... Hàng hoá không giao nhận bằng phương pháp thông thường mà hai bên hẹn ngày giờ, gặp nhau tại phao số 0 ngoài khơi rồi trao hàng nên không có thủ tục thông quan, xuất nhập cảnh, bớt được nhiều khâu thủ tục.

Nhìn lại công cuộc đổi mới năm 1986, có thể thấy TP.HCM được coi là địa phương tiên phong, “mở đường” cho cuộc đổi mới. Sự tiên phong này không phải bằng khẩu hiệu mà bằng hàng loạt biện pháp “làm khác cơ chế” từ thực tiễn. Thành phố cũng là địa phương thừa nhận thực tế “giá thị trường”. Để có thể thu mua được hàng hóa, khuyến khích các cơ sở sản xuất, Thành phố đã áp dụng chính sách bù lỗ linh hoạt. Cùng với đó là trao quyền tự chủ cho doanh nghiệp Nhà nước khi Trung ương chưa có chủ trương này.
Những doanh nghiệp trên địa bàn thành phố được chủ động tự tìm nguồn nguyên liệu, chủ động ký hợp đồng, trả lương theo năng suất và được giữ lại một phần lợi nhuận. Đây thực chất là khoán trong công nghiệp - thương nghiệp và trao quyền chủ động lớn hơn cho doanh nghiệp.
Không chỉ với kinh tế nội đô, Thành phố cũng rất sáng tạo trong nông nghiệp vùng ven. Các huyện như Củ Chi, Hóc Môn đã giao khoán cho hộ nông dân. Nhờ đó năng suất tăng, đảm bảo lương thực cho Thành phố, giải quyết được “cái ăn” cho người dân Thành phố bằng thực tiễn, không chờ cơ chế.
Thành phố cũng có cơ chế tài chính - tiền lương linh hoạt, phá thế bao cấp ngân sách. Ở khu vực doanh nghiệp đều tự hạch toán, không hoàn toàn trông chờ cấp phát tiền lương, gắn với hiệu quả, không cào bằng.
Với tinh thần dám làm, dám chịu, những lãnh đạo chủ chốt thời kỳ này là ông Võ Văn Kiệt và người kế nhiệm là cố Thủ tướng Nguyễn Văn Linh cũng tiếp tục với phong cách “Làm trước - báo cáo sau”, lấy đời sống nhân dân làm thước đo đã đưa TP.HCM trở thành “phòng thí nghiệm” cải cách. Nhờ đó, nhiều kinh nghiệm từ TP.HCM được Trung ương nghiên cứu, hợp thức hóa thành chính sách quốc gia. Những cán bộ từ TP.HCM như ông Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Mai Chí Thọ… đã được điều động ra bắc trực tiếp tham gia soạn thảo đường lối đổi mới.
Thực tiễn TP.HCM đã phá vỡ tư duy lối mòn, giáo điều, nhờ đó mà đưa đất nước chuyển mình, hội nhập thành công với thế giới.