Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được xem là vựa lúa, vựa cá, vựa tôm và vựa trái cây lớn nhất trên cả nước. Hiện có hơn 65% dân cư vùng đồng bằng này làm nghề nông, đóng góp hơn 50% sản lượng lương thực và khoảng 27% GDP của cả nước.
Đọc E-paper
Hướng đến năm 2020, Chiến lược an ninh lương thực quốc gia yêu cầu ngành nông nghiệp ĐBSCL phải tăng sản lượng gạo từ 21 triệu tấn/năm lên 22,1 triệu tấn/năm, tổng sản lượng thủy sản cần phải tăng 28% vào năm 2020. Để đạt được mục tiêu đó thì khu vực này cần phải tăng cường liên kết vùng, nâng cao năng suất và đầu tư phát triển chuỗi cung ứng nông nghiệp.
Chuỗi cung ứng nông nghiệp còn rời rạc, vận hành kém hiệu quả
Mặc dù ĐBSCL là vùng trọng tâm phát triển nông nghiệp trên cả nước nhưng nhìn chung, chuỗi cung ứng toàn ngành tại khu vực này vẫn còn lỏng lẻo và rời rạc, từ đó doanh nghiệp chế biến thực phẩm, xuất khẩu nông sản cũng gặp nhiều khó khăn và thu nhập của người nông dân thì rất thấp. Đây là nhận định của các chuyên gia tại sự kiện kinh tế quan trọng của khu vực ĐBSCL Mekong Connect - CEO Forum 2016 diễn ra vào cuối tháng 10/2016.
Có thể thấy, chuỗi cung ứng ngành nông nghiệp có sự tham gia của quá nhiều bên trung gian, đa số là các thương lái. Bên trung gian này rất am hiểu về địa phương, có phương tiện vận tải đường thủy và hệ thống kho rải khắp ven sông. Thương lái thu mua và vận chuyển nông sản bằng cách tập trung khai thác mạng lưới sông ngòi dày đặc.
Như vậy, trong chuỗi giá trị, thương lái đóng vai trò là đơn vị cung cấp dịch vụ logistics. Tuy nhiên, điều bất cập là thương lái lại trở thành thương nhân bán nông sản cho doanh nghiệp và từ đó, họ dễ dàng có các động thái thao túng giá và nguồn cung. Mặt khác, ở ĐBSCL còn xuất hiện nhiều thương lái Trung Quốc đi mua nông sản giá rẻ hoặc bán phân, thuốc chưa qua kiểm định cho nông dân gây rối loạn thị trường và gây ô nhiễm môi trường. Những điều này đã làm chậm dòng chảy hàng hóa và cũng làm tắc nghẽn, thiếu minh bạch thông tin giá cả, thị trường.
Thống kê đưa ra tại Mekong Connect – CEO Forum 2016 cho thấy hơn 90% nông dân coi thương lái là nguồn thông tin duy nhất về thị trường và cũng là nơi thu mua nông sản duy nhất của họ. Trong khi đó, doanh nghiệp không tương tác trực tiếp với nông dân nên hầu như cũng không nắm rõ được tình hình nguồn cung. Điều này đưa đến tình trạng “bên cung không nắm được cầu mà bên cầu cũng không nắm được cung”, hệ quả là doanh nghiệp không có đủ thông tin để dự báo và lập kế hoạch cung ứng hiệu quả.
Trong bất cứ ngành nào, khi doanh nghiệp ở đầu ra thị trường không làm chủ được kế hoạch thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của toàn bộ chuỗi cung ứng về phía đầu cung. Nguyên nhân một phần là do thương lái, một phần là do nhiều doanh nghiệp vẫn chưa sẵn sàng hợp tác trực tiếp với nông dân.
Tỷ lệ tổn thất nông sản cao
Chuỗi cung ứng rời rạc là nguyên nhân khiến cho tốc độ đưa nông sản ra thị trường bị chậm lại, gây tổn thất nông sản từ 25 - 40%. Có thể thấy, tốc độ ra thị trường càng nhanh thì các mặt hàng rau quả, trái cây, thủy sản mới giữ được chất lượng cũng như làm vòng quay đồng vốn nhanh hơn.
Nhưng hiện nay, tốc độ ra thị trường của nông sản còn rất chậm vì thương lái trực tiếp kiểm soát thu mua, gây ảnh hưởng lên nguồn cung và giá mua nông sản của doanh nghiệp. Không ít trường hợp thương lái có những động thái “giam” hàng, đẩy giá lên cao khiến cho hàng hóa bị giữ lại ở khâu trung gian khá lâu, khó tránh chuyện hư hỏng hao hụt hàng hóa.
Ngoài ra, nguyên nhân khiến cho tỷ lệ nông sản tổn thất cao là do chuỗi cung ứng lạnh tại khu vực ĐBSCL đến nay vẫn chưa hoàn thiện, thiếu sơ chế sau thu hoạch cũng góp phần đáng kể vào tình hình này.
Về chuỗi cung ứng lạnh, các khoản đầu tư hiện nay hầu như được ưu tiên cho nông sản xuất khẩu, trong khi chuỗi nông sản tiêu thụ trong nước còn rời rạc, thậm chí bị gián đoạn ở nhiều khâu, kể cả khâu cuối cùng, chẳng hạn như hàng thực phẩm tươi sống chưa thể giao đến siêu thị lại bị “phơi” dưới nắng nóng chứ không được tổ chức để lưu kho lạnh, kho mát ngay.
Thêm vào đó, việc sơ chế sau thu hoạch vẫn còn khá thủ công và chưa thực hiện rộng rãi vì đa phần sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, thiếu đầu tư máy móc công nghệ.
Lẽ ra, khâu sơ chế phải được chú trọng thực hiện ngay sau khi thu hoạch thì mới giúp giảm khối lượng hàng hóa cần chuyên chở đồng thời giảm tỷ lệ hư hỏng hàng hóa.
Hạ tầng giao thông chưa được đầu tư
Ông Julien Brun - TGĐ Công ty Tư vấn CEL cho rằng, so với các nước láng giềng trong khu vực như Philippines, Malaysia, Thái Lan thì Việt Nam có một “tài sản” vô cùng quý giá đó là mạng lưới sông ngòi tại ĐBSCL. Mạng lưới này không chỉ cung cấp nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp mà còn có tiềm năng vận chuyển nông sản. So với đường bộ thì đường thủy nội địa cho phép vận chuyển nông sản khối lượng lớn và hiệu quả hơn.
Tuy nhiên hiện nay cơ sở hạ tầng đường thủy cũng như hệ thống đường nông thôn tại ĐBSCL vẫn chưa được đầu tư phát triển đúng mức. Trong khi thương lái hiểu rất rõ khả năng vận tải đường thủy chính là thế mạnh thì các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics hiện đại cũng chưa đầu tư khai thác hệ thống sông ngòi.
Về vận tải đường bộ, chất lượng các con đường chính còn thấp, một số cầu lớn chưa hình thành dẫn đến tính kết nối của hệ thống đường bộ chưa cao. Hầu hết các tuyến đường trục dọc và ngang đều chưa đạt về cường độ yêu cầu, tiêu chuẩn đường vào cấp quy hoạch…
Về đường thủy thì công tác quy hoạch tổng thể hệ thống cảng, bến thủy còn nhiều bất cập, công nghệ bốc xếp chủ yếu còn rất thô sơ, không có khả năng tiếp cận những phương tiện cỡ lớn. Một số tỉnh có đầu tư xây dựng cảng nước sâu, nhưng lại chưa xây dựng đường nối cảng với hệ thống giao thông bên ngoài, số lượng tàu lớn nhưng trọng tải và công suất nhỏ, khả năng an toàn thấp dẫn đến tầm hoạt động bị hạn chế, không tạo được năng suất vận tải cao.
Mặt khác, đường thủy và đường bộ vẫn chưa kết nối chặt chẽ được với nhau để phục vụ vận tải đa phương thức.
Chuỗi cung ứng nông nghiệp tương lai cho ĐBSCL
Nói về tương lai của chuỗi cung ứng nông nghiệp ĐBSCL, ông Julien Brun cho rằng cần phải tập trung vào chiến lược sản xuất, chiến lược thu mua và chiến lược phân phối, giảm thời gian ra thị trường của nông sản, đáp ứng quy mô cho nghiên cứu sáng tạo.
Hiện nay việc tập trung vào chiến lược sản xuất đang được triển khai thí điểm bằng mô hình Cánh đồng mẫu lớn thiên về liên kết dọc và mô hình hợp tác xã thiên về liên kết ngang.
Theo ông Julien, trong tương lai, việc tập trung sản xuất trên diện rộng sẽ đòi hỏi kết hợp cả hai mô hình này. Khi đó hợp tác xã sẽ đóng vai trò quản lý, điều phối hoạt động sản xuất của nông dân và kiểm tra chất lượng xuyên suốt từ đầu vào và đầu ra. Còn doanh nghiệp sẽ đóng vai trò định hướng sản xuất theo nhu cầu thị trường, xây dựng thương hiệu cho nông sản và đầu tư phát triển kỹ thuật công nghệ. Trong đó, vai trò của hợp tác xã và việc nâng cao năng lực quản lý đặc biệt cần quan tâm để hợp tác xã trở nên thực tiễn hơn theo quan điểm của doanh nghiệp.
Tập trung vào chiến lược thu mua đòi hỏi xây dựng một mạng lưới thu mua nông sản trên toàn vùng ĐBSCL với các trung tâm thu mua và sơ chế tại từng tỉnh. Nông sản sau khi được thu mua và sơ chế tại các trung tâm cấp tỉnh sẽ được tập trung về một trung tâm logistics lớn, nơi mà sản phẩm sẽ được phân luồng để chế biến, đóng gói và bao bì.
Đối với mạng lưới thu mua này, việc đầu tư xây dựng hệ thống kho lạnh, kho hàng xá, trung tâm sơ chế và hệ thống vận tải đa phương thức bao gồm đường bộ và đường thủy nội địa là rất cần thiết. Thương lái cũng nên được tổ chức và đóng vai trò là nhà cung cấp dịch vụ logistics cho nông sản chứ không còn giữ vai trò bán buôn như hiện nay.
Cùng với vốn kiến thức địa phương phong phú, thương lái sẽ có một nền tảng rất tốt để phát triển thành những nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp.
Nối tiếp mạng thu mua là mạng phân phối tập trung, bao gồm một đại trung tâm phân phối và nhiều chợ đầu mối cung ứng trực tiếp đến những điểm bán tại thị trường thành thị và nông thôn. Hiện nay mô hình thu mua và phân phối tập trung đã rất phổ biến tại các nước phát triển và trong tương lai sẽ rất cần thiết đối với Việt Nam.
Việc tập trung hóa sản xuất, thu mua, và phân phối không chỉ nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng mà còn cho phép biến ĐBSCL thành một “trung tâm nghiên cứu sáng tạo”, cung cấp quy mô tập trung để những ngành như công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm phát triển theo.
>Thúc đẩy kinh tế ĐBSCL: Chỉ có vốn thôi là chưa đủ
>Tái cơ cấu nông nghiệp ĐBSCL: Vẫn chờ tư duy mới
>8 yếu tố khởi nghiệp thành công trong ngành nông nghiệp