Một số các chuyên gia đã khẳng định như vậy tại một tọa đàm về "Chính sách quản lý Fintech" tổ chức mới đây. Phải có biện pháp “gỡ khó” về mặt pháp lý để Fintech (Financial Technology - công nghệ tài chính) có thể phát triển lành mạnh, hạn chế các hoạt động tiêu cực đã trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Hệ sinh thái Fintech trong nước đang phát triển mạnh
Theo đánh giá tổng quát của các chuyên gia, Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển Fintech khi dân số đứng thứ 15 trên thế giới với khoảng 96,2 triệu người, có trên 65,6% dân số sinh sống ở khu vực nông thôn. Đại đa số người dân tại vùng nông thôn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ tài chính truyền thống. Trong khi đó, công nghệ thông tin và hạ tầng viễn thông đang phát triển mạnh. Hiện có 51 triệu người dùng điện thoại, trong đó hơn một nửa dùng smartphone; 50 triệu người dùng internet.
Cùng đó, tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản ngân hàng đạt 45,8 triệu người, chiếm 63% vào năm 2018.
Theo ông Ngô Văn Đức - Phó trưởng phòng Giám sát các hệ thống thanh toán, Vụ Thanh toán Ngân hàng Nhà nước, với sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ di động, những năm gần đây Fintech đã có sự phát triển nhanh chóng, làm thay đổi diện mạo hệ thống tài chính ngân hàng, đem lại thuận tiện cho các giao dịch kinh doanh, tiêu dùng.
Hội thảo về Chính sách cho Fintech do Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam và chuyên trang ICTnews báo điện tử VietNamNet tổ chức |
Tại Việt Nam, hiện có 30 tổ chức không phải ngân hàng đã được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. 24 ngân hàng đã triển khai dịch vụ thanh toán QR Code, hơn 50.000 điểm chấp nhận thanh toán QR Code.
Bên cạnh đó, có 76 tổ chức triển khai dịch vụ thanh toán qua internet, 44 tổ chức triển khai dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động.
Chính phủ đã chỉ đạo yêu cầu các bộ ngành chức năng và doanh nghiệp phải thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, phổ cập thanh toán di động, góp phần đưa tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương diện thanh toán ở mức thấp hơn 10% vào năm 2020.
Ông Đức nhận định: “Đây là những điều kiện thuận lợi để người dân tiếp cận dịch vụ tài chính mới”. Cũng theo ông, còn có những điểm bất cập trong các quy định hiện thời, khiến Fintech chưa thể phát triển lành mạnh và mạnh mẽ như tiềm năng sẵn có.
Chia sẻ quan điểm này, luật sư Phùng Anh Tuấn - Phó Chủ tịch, Tổng thư kí Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính (VAFI) - nêu quan điểm: các startup Fintech đang rất cần vốn đầu tư nước ngoài để phát triển, đầu tư cho công nghệ, thị trường, nhân lực... Nếu hạn chế đầu tư từ nước ngoài sẽ kìm hãm sự phát triển.
Những rào cản đang làm “chậm chân” Fintech
Tại hội thảo, các chuyên gia phân tích, trên thực tế Fintech đang giúp cho các hoạt động giao dịch tài chính, tiền tệ trở nên thuận tiện, nhanh chóng hơn nhưng cùng đó cũng đồng nghĩa với bị lợi dụng để các hoạt động, giao dịch bất hợp pháp. Vì thế các chính sách, quy định điều chỉnh Fintech thường tập trung vào việc ngăn chặn việc Fintech bị sử dụng cho các hoạt động bất hợp pháp.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Văn Bá - Phó tổng biên tập báo VietnamNet, rằng nếu các chính sách, quy định đặt ra quá nhiều hạn chế, ràng buộc (để kiểm soát, ngăn chặn việc Fintech bị sử dụng cho mục đích xấu), cũng đồng nghĩa với việc làm giảm sự thuận tiện của số đông người dùng. Vì vậy, điểm cốt yếu trong xây dựng chính sách cho Fintech là tìm ra sự cân bằng giữa kiểm soát rủi ro trong khi vẫn đảm bảo quyền lợi cho đa số người dùng.
Liên quan đến vấn đề này, luật sư Phùng Anh Tuấn cho rằng, đa số các chính sách hiện nay đều được định hướng “siết” Fintech: quản lý chặt chẽ, kiểm soát kỹ càng, dẫn đến “vô hiệu hóa” những tiện lợi mà công nghệ mang lại cho lĩnh vực này, cũng như hạn chế việc tiếp cận và phát huy hết các nguồn lực của doanh nghiệp Fintech.
Cụ thể, Nghị định thay thế Nghị định 101/2012 của Chính phủ giới hạn đầu tư nước ngoài vào Fintech ở mức 30% hoặc 49%. Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư 39 áp hạn mức giao dịch theo ngày và theo tháng đối với ví cá nhân lần lượt là 20 triệu đồng và 100 triệu đồng, với ví tổ chức là 100 triệu đồng và 500 triệu đồng. Đồng thời hạn chế mỗi người chỉ được sử dụng một ví điện tử tại một tổ chức.
Ông Tuấn cho rằng: “Các doanh nghiệp Fintech rất cần vốn đầu tư nước ngoài để phát triển, đầu tư cho công nghệ, thị trường, nhân lực… Việc hạn chế đầu tư nước ngoài sẽ kìm hãm sự phát triển của Fintech”.
Đồng quan điểm, ông Varun Mittal - Phó chủ tịch Hiệp hội Fintech Singapore, đồng thời là Trưởng Bộ phận tư vấn dịch vụ Fintech tại các thị trường mới của Ernst & Young Singapore cho rằng, việc dự kiến hạn chế đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực Fintech cũng đặc biệt gây quan ngại, do hiện nay sự phát triển của các doanh nghiệp Fintech vẫn phần lớn dựa vào đầu tư nước ngoài.
“Các startup trong lĩnh vực này đều cần có sự đầu tư về công nghệ, thị trường và nhân sự, trong khi đó các nguồn lực trong nước còn chưa đáp ứng được. Ngoài ra, đầu tư nước ngoài còn cho phép doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận các thành quả công nghệ mới, đặc biệt trong các lĩnh vực dữ liệu lớn (Big Data) hay trí tuệ nhân tạo (AI)... vốn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để xây dựng các sản phẩm, giải pháp cho Fintech”, ông Varun Mittal nói.
Luật sư Phùng Anh Tuấn cũng lưu ý: Theo Hiệp định thương mại thế hệ mới như CPTPP hay EU - VN FTA, Việt Nam đều đưa ra cam kết mở cửa lĩnh vực tài chính - ngân hàng với phạm vi cam kết rất rộng, bao gồm tất cả dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, cung cấp và chuyển giao thông tin tài chính, xử lý dữ liệu tài chính, phần mềm liên quan bởi các nhà cung cấp các dịch vụ tài chính khác; tư vấn, trung gian và các dịch vụ tài chính phụ trợ khác.
Vì vậy, các cơ quan xây dựng chính sách cần lưu ý để tránh vi phạm cam kết quốc tế của Việt Nam, dẫn đến nhiều hệ lụy.