Thị trường nội địa rộng nhưng chưa được ngành gỗ khai thác đúng mức |
Ngành gỗ Việt Nam hiện chiếm 6% thị phần thế giới, tiếp tục đứng đầu ASEAN, thứ hai châu Á và thứ năm thế giới, thuộc nhóm các nước mạnh về chế biến gỗ, và nằm trong top 6 ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
Trong tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ năm 2017, các doanh nghiệp trong nước chiếm 53% và doanh nghiệp FDI chiếm 47%, là năm hiếm hoi ngành gỗ Việt Nam khẳng định được vị thế "sân nhà". Tuy nhiên, xét về các điều kiện kinh tế - xã hội, tỷ lệ này vẫn còn khá khiêm tốn và chưa tương xứng với tiềm năng. Đặc biệt, thị trường nội địa được đánh giá hơn 4 tỷ USD vẫn chưa được chú trọng đúng mức.
Theo ông Nguyễn Quốc Khanh - Tổng giám đốc AA Corporation, Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM (HAWA), từ đây đến sau năm 2020, ngành gỗ có rất nhiều tiềm năng phát triển. Đến năm 2020, ngành gỗ sẽ xuất khẩu đạt 11,26 tỷ USD, thị trường nội địa tăng 6%, đạt 1,75 tỷ USD. Đó là những mục tiêu hoàn toàn vừa sức.
Trừ châu Á, các khu vực sản xuất đồ gỗ khác không tăng trong vài năm gần đây, áp lực cạnh tranh toàn cầu không quá nặng nề. Việt Nam cũng là nước sản xuất và chế biến gỗ đúng nghĩa, khác hẳn Singapore hay Philippines vốn thiên về thương mại, nhận đơn hàng và chuyển đi gia công ở các nước khác.
Ông Khanh phân tích: "Trung Quốc bắt đầu đánh thuế xuất khẩu đồ gỗ. Họ còn bị kiện bán phá giá tại Mỹ làm cho đồ nội thất của nước này giảm sức cạnh tranh. Đức, Ý đang giảm sản xuất đồ gỗ vì chi phí đầu vào tăng, sức cạnh tranh giảm. Sản xuất đồ nội thất là thế mạnh của Việt Nam. Nếu không nắm bắt cơ hội, các nước láng giềng như Indonesia và Malaysia chắc chắn sẽ vượt qua Việt Nam để giành lấy thị trường và ngôi quán quân trong ASEAN".
Hiện nay Mỹ, Nhật và châu Âu vẫn là những thị trường chính của đồ gỗ Việt Nam. Mỹ vẫn duy trì chính sách ưu đãi nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam, nhưng chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp của Mỹ giảm từ 35% xuống 25% đang hỗ trợ cho các ngành sản xuất bản địa, trong đó có ngành gỗ. Thị trường EU không tăng nhiều song đồng euro giảm giá cũng gây khó khăn cho việc nhập khẩu đồ gỗ từ Việt Nam.
Thị trường Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc không tăng mạnh nhu cầu, đặc biệt là dăm gỗ, viên nén gỗ. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp gỗ Trung Quốc muốn chuyển sang Việt Nam dưới hình thức liên doanh, liên kết để tận dụng các ưu thế về thuế và thị trường. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến thị trường lao động và nguyên liệu trong nước, đồng thời có thể dẫn đến nguy cơ bị kiện chống bán phá giá.
Bên cạnh đầu tư máy móc hiện đại, chú trọng thiết kế mẫu mã mới và cải tiến quản trị, một vấn đề quan trọng được các doanh nghiệp ngành gỗ đồng tình là sự ổn định về nguyên liệu, đặc biệt là nguồn gỗ có chứng chỉ. Theo ông Lê Văn Minh - CEO Công ty TNHH Chế biến gỗ Tường Văn, 2 loại gỗ có thế mạnh của ngành gỗ Việt Nam là tràm (keo) và cao su.
Trong khi tràm vẫn còn lợi thế thì gỗ cao su khai thác hằng năm vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp trong nước do thương nhân Trung Quốc đẩy giá để thu gom. Gỗ cao su Việt Nam đã trở thành thương hiệu tin cậy tại thị trường Mỹ, châu Âu nay đang mất dần lợi thế vì khan hiếm nguyên liệu.
Theo ông Minh, Nhà nước cần phải can thiệp để hạn chế xuất khẩu gỗ nguyên liệu, khuyến khích xuất khẩu đồ gỗ. Doanh nghiệp gỗ cần đa dạng hóa nguồn nguyên liệu để không bị tác động về giá cả, ưu tiên sử dụng gỗ rừng trồng để khuyến khích kinh tế lâm nghiệp, nói không với gỗ bất hợp pháp.
Để ngành gỗ Việt Nam phát triển bền vững, các doanh nghiệp cho rằng không thể không đề cập đến trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước. Tại buổi làm việc với Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường, đại diện HAWA kiến nghị, bên cạnh cổ súy sử dụng gỗ hợp pháp, cần có kế hoạch tuyên truyền để ngành gỗ không bị hiểu nhầm là ngành phá rừng, đe dọa môi trường.
Các doanh nghiệp kiến nghị bộ này sớm trình Chính phủ ban hành nghị định tuân thủ các yêu cầu về gỗ hợp pháp theo hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp Việt Nam (gọi tắt là VNTLAS) và sớm ban hành bộ tiêu chuẩn quản trị rừng bền vững để cấp chứng chỉ của Việt Nam.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, mỗi năm ngành gỗ cần khoảng 40 triệu m3 gỗ nguyên liệu, nếu ngành gỗ kết hợp tốt với lâm dân, lâm nghiệp, quỹ đất 4,1 triệu ha hiện nay hoàn toàn đủ cung cấp nguyên liệu để chế biến. Một khó khăn khác khiến các doanh nghiệp kêu ca là hiện nay Tổng cục Lâm nghiệp chưa ban hành các biểu mẫu xác nhận gỗ hợp pháp thống nhất trong cả nước, nên doanh nghiệp rất khó khăn để thực hiện trách nhiệm giải trình.