![]() |
Nguyên liệu: Vẫn bế tắc
Theo báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ ngày 31/3/2020 của Bộ Công Thương, dịch Covid-19 khiến các chỉ số kinh tế của ngành công nghiệp trong quý I giảm đáng kể so với cùng kỳ các năm cũng như so với mục tiêu đề ra. Thời gian tới, các ngành sản xuất sẽ còn đối diện với rất nhiều nguy cơ. Đặc biệt, doanh nghiệp (DN) sản xuất không chỉ bị ảnh hưởng nguồn nguyên vật liệu đầu vào mà còn bị ảnh hưởng thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Từ đầu năm đến nay, dịch Covid-19 đã ảnh hưởng rất lớn đến các quốc gia sản xuất, cung ứng nguyên phụ liệu, linh phụ kiện đầu vào, đặc biệt là Trung Quốc cho các ngành công nghiệp trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Với tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp còn thấp, nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng phần lớn phải nhập khẩu và sản xuất tập trung ở lĩnh vực gia công hạ nguồn như Việt Nam, Bộ Công Thương khẳng định: Rủi ro đứt gãy chuỗi sản xuất là rất lớn.
Để tìm cách tháo gỡ, nhiều DN đã nỗ lực đa dạng hóa nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu từ các quốc gia khác để thay thế nguồn cung từ Trung Quốc, tuy nhiên vẫn gặp không ít khó khăn. Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh: “Do đặc thù phân bổ chuỗi sản xuất toàn cầu cũng như các yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ, chất lượng riêng biệt của các công ty đa quốc gia nên nguyên phụ liệu cao cấp hoặc linh kiện, phụ tùng rất khó tìm nguồn thay thế trong ngắn hạn. Thời gian để tìm kiếm nguồn cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào của các ngành có hàm lượng công nghệ và kỹ thuật cao như điện tử hay ô tô thường mất từ ba tháng đến một năm. Sản phẩm đầu vào nhập khẩu từ các quốc gia khác thường có giá thành cao hơn so với sản phẩm từ Trung Quốc và mẫu mã, chất lượng lại thường không đa dạng bằng”.
Bên cạnh đó, giá thành một số nguyên vật liệu, linh phụ kiện nhập khẩu từ Trung Quốc và các quốc gia khác, nhiều nhất là Hàn Quốc và Nhật Bản tăng cao gây ảnh hưởng đến giá thành sản xuất sản phẩm, nhất là ngành thép. Trong khi giá thành nguyên phụ liệu nhập khẩu phục vụ sản xuất có xu hướng tăng thì giá bán sản phẩm hoàn chỉnh lại phải hạ xuống do giá thành trên thế giới và tại Trung Quốc giảm sâu.
Theo thông tin từ Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin Trung Quốc, sau khi qua đỉnh dịch, các DN trong ngành chế biến, chế tạo của Trung Quốc bắt đầu hoạt động trở lại, trong đó có khoảng 72% DN nhỏ và vừa, nên nguồn cung nguyên vật liệu, linh phụ kiện nhập khẩu cho các ngành sản xuất tại Việt Nam đã được phục hồi một phần.
Dù vậy, thời gian tới, việc nhập khẩu nguyên phụ liệu, linh phụ kiện đầu vào từ Trung Quốc dự kiến vẫn chưa thể thuận lợi do cả hai quốc gia vẫn kiểm soát chặt chẽ các cửa khẩu biên giới, trong khi việc vận chuyển bằng đường biển, đường hàng không làm tăng chi phí và khó bảo đảm số lượng hàng hóa phục vụ cho nhu cầu sản xuất như việc vận chuyển qua đường bộ.
Tuy khó khăn, vướng mắc về nguyên phụ liệu, linh phụ kiện nhập khẩu nhưng theo nhận định của lãnh đạo Bộ Công Thương là chưa tác động quá nghiêm trọng tới sản xuất do hầu hết DN vẫn có thể cân đối từ nguồn nguyên phụ liệu dự trữ cũng như các đơn hàng sẵn có từ cuối năm 2019 và đầu năm 2020, cộng với việc khôi phục sản xuất từ phía Trung Quốc và một số quốc gia khác, nguồn cung nguyên phụ liệu nhập khẩu có thể không còn là vấn đề quá nghiêm trọng đối với DN như dự báo trước đây.
Thế nhưng, dự báo sản xuất công nghiệp trong các quý tiếp theo sẽ vẫn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi thị trường tiêu thụ trong nước cũng như toàn cầu sụt giảm trong bối cảnh dịch Covid-19 ngày càng lan rộng, đặc biệt là thị trường Mỹ và châu Âu.
Da giày, dệt may, đồ gỗ bí đầu ra
Trong quý I, ngành sản xuất ô tô, sản xuất kim loại và sản xuất đồ uống có mức tăng trưởng chỉ số sản xuất công nghiệp thấp nhất, trong đó chỉ số sản xuất công nghiệp ngành sản xuất đồ uống sụt giảm 9% so với cùng kỳ năm trước, đồng thời chỉ số tồn kho cũng tăng rất cao.
Mặc dù cuối tháng 3, nguồn cung nguyên vật liệu từ Trung Quốc cơ bản được phục hồi, nhưng dịch Covid-19 ở châu Âu và Mỹ bùng phát nên vẫn ảnh hưởng đến các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như điện tử, dệt may, da giày, đặc biệt là đồ gỗ. Đối với ngành dệt may và da giày, tiêu thụ trong nước chỉ khoảng 10% sản lượng, còn lại là xuất khẩu, do đó sự sụt giảm nhu cầu của thị trường Mỹ và châu Âu (lần lượt chiếm khoảng 45% và 18% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, 36% và 27% kim ngạch xuất khẩu giày dép), sẽ tác động rất lớn đến tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhiều khách hàng lớn ở Mỹ và EU đã đề nghị DN dệt may, da giày Việt Nam giãn, hoãn tiến độ giao hàng, chưa ký hợp đồng mới, có trường hợp đề nghị hủy hợp đồng. Dự kiến số lượng đơn hàng trong tháng 4, tháng 5 của hai ngành này sẽ giảm khoảng 70%, các đơn hàng từ tháng 6 trở đi sẽ chưa được đàm phán và khả năng phục hồi đơn hàng đến cuối năm 2020 sẽ rất chậm.
Nhiều DN cho biết, việc chuyển hướng xuất khẩu sang các quốc gia khác cũng không mấy thuận lợi, vì Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản cũng rất khó có thể bù đắp thiếu hụt từ thị trường Mỹ và châu Âu, trong khi đó hàng dệt may và giày dép của Việt Nam có thể gặp phải sự cạnh tranh rất lớn từ Trung Quốc.
Giải pháp
Khó xuất khẩu, nhiều DN đã tìm đầu ra ở thị trường trong nước. Tuy nhiên, việc chuyển hướng vào thị trường nội địa cũng gặp nhiều vướng mắc vì đa số DN Việt Nam gia công cho các thương hiệu nước ngoài, do đó mẫu mã, nguyên liệu sử dụng nhằm để đáp ứng thị hiếu của nước ngoài, không phải cho thị trường trong nước.
Mặt khác, nhu cầu tiêu thụ trong nước cũng đang giảm sút do tâm lý giảm chi tiêu những mặt hàng không thiết yếu. Đáng lo là thời gian tới, DN Việt Nam sẽ gặp sự cạnh tranh rất lớn từ hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc, trong đó không loại trừ gian lận thương mại, bán phá giá hay nhập lậu.
Theo ước tính của Hiệp hội Dệt May và Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam, nếu dịch bệnh tiếp tục kéo dài tại Mỹ và châu Âu, 100% DN dệt may, da giày, túi xách Việt Nam bị ảnh hưởng, và có thể tác động đến hơn 3/4 số lao động trong các ngành này, với hơn 3 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp.
Để tháo gỡ khó khăn cho DN, Bộ Công Thương đề xuất: “Ưu tiên quan trọng nhất trong thời điểm này là phải duy trì hoạt động của DN công nghiệp, bởi việc để một DN đóng cửa sẽ tạo ra hiệu ứng tiêu cực đối với DN khác theo chuỗi cung ứng”.
Theo Bộ Công Thương, ba giải pháp cơ bản hỗ trợ DN gồm: đẩy mạnh thông quan nguyên phụ liệu nhập khẩu để kịp thời cung ứng cho sản xuất; có chính sách hỗ trợ đủ mạnh, thực chất về tín dụng, tài chính và thuế để DN bảo đảm sản xuất; đẩy mạnh tìm kiếm thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước cho các ngành công nghiệp trọng điểm.
Mặc dù Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ DN nhưng đến nay, hầu như DN công nghiệp rất khó tiếp cận tín dụng ngân hàng. Do đó, NHNN cần sử dụng công cụ tái cấp vốn với tỷ lệ chiết khấu phù hợp để các ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay DN công nghiệp với mức bằng 30% so với mức lãi suất hiện nay trong thời hạn 12-24 tháng, đơn giản hóa và minh bạch hóa các thủ tục để DN có thể tiếp cận nhanh các gói hỗ trợ tín dụng của Nhà nước. Tuy nhiên, với diễn biến phức tạp của dịch Covid-19 có khả năng tiếp tục ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh, vì vậy cần điều chỉnh thời gian cơ cấu lại nợ.
Hiện nay, các tổ chức tín dụng đã chủ động đưa ra các gói hỗ trợ lãi suất, giảm lãi suất cho vay từ 0,5-1,0% nhưng điều kiện để tham gia các gói tín dụng này rất phức tạp và việc giảm lãi suất chưa thực sự là đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất. Bộ Công Thương cho rằng, NHNN nên có gói tín dụng cụ thể để hỗ trợ DN trong giai đoạn khó khăn, như cho vay với lãi suất thấp, giãn thời gian trả nợ lãi cho khách hàng, miễn, giảm thuế thu nhập DN chứ không chỉ dừng lại ở mức hỗ trợ gia hạn thời hạn nộp thuế, xem xét gói hỗ trợ về thuế thu nhập DN cho DN nhỏ và vừa, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và trong các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày.
Đối với thị trường Mỹ và châu Âu, Bộ Công Thương kiến nghị nghiên cứu dự luật về gói cứu trợ kinh tế 2.000 tỷ USD mới được chính quyền Mỹ thông qua, nhằm nắm bắt chính sách kích cầu tiêu dùng của Mỹ để có phương án xuất khẩu hàng hóa thích hợp. Đối với thị trường EU, hoàn tất các thủ tục để sớm thông qua EVFTA và chuẩn bị tốt để thực thi hiệp định ngay sau khi có hiệu lực, theo dõi chính sách của chính phủ các nước châu Âu để nếu có các gói kích thích kinh tế sẽ có các biện pháp đẩy mạnh hàng xuất khẩu.
Bộ Công Thương đề xuất Chính phủ tiến hành các giải pháp dài hạn để tăng tính độc lập, tự chủ cho các ngành sản xuất, sớm thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ, tăng cường các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, thu hút chuyển dịch đầu tư các ngành sản xuất, trong đó có sản xuất linh phụ kiện từ Trung Quốc và các quốc gia khác sang Việt Nam.
Ý KIẾN CỦA BẠN