Đồng bằng sông Cửu Long: Phát triển kinh tế nông nghiệp "thuận thiên"

Phương Hà| 12/04/2023 07:00

Chuyển tư duy từ "sản xuất nông nghiệp" sang "kinh tế nông nghiệp" không hề dễ, nhưng nếu từ cán bộ các cấp chính quyền đến nông dân biết chuyển từ chuỗi liên kết cung ứng nông sản sang chuỗi liên kết giá trị ngành hàng, chuyển từ nền nông nghiệp sản lượng cao sang nền nông nghiệp công nghệ cao, sinh thái, trách nhiệm, bền vững thì mục tiêu ấy rất khả thi.

1. Lần đầu tiên tôi biết đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là giữa mùa mưa năm 1973, khi theo cô giao liên vũ trang tên Sáu từ Đức Hòa sang Mộc Hóa, tỉnh Kiến Tường (nay là thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An), băng Đồng Tháp Mười (ĐTM) về miền Tây viết về chiến tranh du kích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước. Những lúc cho xuồng len vào những vạt tràm gió rậm rạp để tránh trực thăng đối phương bay trinh sát giữa ĐTM mênh mang nước, Sáu nói khi chưa đi làm giao liên giải phóng, mùa nước nổi như hiện giờ là Sáu thích nhất, ở đâu cũng bơi được xuồng, ở đâu cũng câu được cá, bắt được chuột. Có nước nổi, phù sa về, phèn được xả bớt, năm sau lúa trúng mùa, cây tràm lớn nhanh hơn, cây điên điển cho bông vàng hực, cây hẹ nước càng thơm tho nồi lẩu cá linh, cá rô mề.

Sáu kể, ĐTM hay tứ giác Long Xuyên (TGLX) đụng đâu cũng xì phèn, nhưng những nông dân cố cựu như ba cô biết trị phèn bằng cách lật đất từ từ, không sâu quá, rồi bơm hay tát nước từ kênh vào, xả phèn dần dần. Sắp mùa mưa năm sau lại lật đất bởi lúc ấy đất đã bị lớp phèn bên dưới ngấm lên, gọi là xì phèn, nước nổi về sẽ cuốn phèn ra sông ra biển. Thế là sạ lúa, trồng khóm, trồng khoai mỡ, cây ăn trái đều tốt...

Không ngờ chỉ hơn hai năm sau, chút "kiến thức" về ĐTM có được nhờ cô giao liên giải phóng trong chiến tranh vệ quốc lại rất bổ ích khi tôi đi viết về ĐBSCL những tháng đầu Nam Bắc về một nhà, nhất là kiến thức sống chung với mùa nước nổi, kiến thức về cách xổ phèn, cách khai thác thủy sản "vừa đủ ăn, đủ bán" của nông dân, gọi là sống và canh tác thuận thiên.

2. Mùa nước nổi năm 1978, cả vùng ĐTM, TGLX, nói chung là cả Nam Bộ, nước lênh láng, lộ 4 (nay là quốc lộ 1A) từ Bắc Mỹ Thuận dài lên thị xã Tân An ngập hơn nửa mét. Nước ngâm lâu quá, dân vùng trũng phải tìm lên đất gò dựng lều sống tạm. Rồi những năm sau, nước lại về, không bằng năm 1978 là năm nước lớn nhất trong nhiều năm qua, nhưng ít nhất cũng gần phân nửa ĐBSCL chìm trong nước.

Để giúp dân có chỗ ở an toàn, Chính phủ đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng xây dựng hàng trăm cụm dân cư cao trên mức nước lũ 1978 với hạ tầng cơ sở tối thiểu. Rồi Chính phủ cho đắp đê bao quanh những thị tứ, quanh những cánh đồng lớn để chặn lũ cho dân làm hai vụ, ba vụ lúa một năm. Từ giữa những năm 1980 đến giữa những năm 1990, tôi thường đi viết về các vùng sản xuất lúa, xuất khẩu gạo ở ĐBSCL, nghe nhiều lão nông nói xây dựng cụm dân cư tránh lũ quá tốn tiền mà dân vào ở không bao nhiêu vì phải xa ruộng đồng, xa vườn cây, ao cá.

Bao năm qua, nếu nước lớn quá thì dân "di tản" lên chỗ cao hay đến nhà bà con dọc các con lộ, nước bắt đầu rút lại về chỗ cũ. Cho dân vay tiền, làm nhà trên cọc xi măng để cùng sống chung với mùa nước là tốt nhất. Càng tốt nữa thì trồng tràm cừ, vài ba năm tràm đủ cao thì gác chòi lên chúng để ở khi nước về. Đắp đê bao cũng không nên, vì khi nước nổi, ruộng không có phù sa, chuột bọ nhiều không kể xiết. Ngăn mặn để trồng hai ba vụ lúa thì mùa khô phải khoan nước ngầm, nước ngầm cũng đến lúc cạn kiệt, rồi phía trong cống, sông rạch đủ thứ ô nhiễm. 

Hồi ấy tôi chưa hiểu thấu cách "phản biện" chính xác của những lão nông về chủ trương di dân, xây đập, xây cống của Chính phủ để ĐBSCL làm ra càng nhiều lúa gạo càng tốt, để không những bảo đảm an ninh lương thực cho cả nước mà còn xuất khẩu. 

ĐBSCL nằm ở phần cuối châu thổ sông Mê Kông, rộng 39.200km² - số tròn (khoảng 13% diện tích cả nước), trong đó có hơn 2,5 triệu hécta đất nông nghiệp, 700.000 hécta nuôi trồng thủy sản, đóng góp 58% sản lượng lúa, cung cấp 90% lượng gạo, 70% thủy sản xuất khẩu và 60% trái cây của cả nước. 

ĐBSCL có 16 công trình xây dựng đường ven biển, kết nối vùng, đê bao chống sạt lở, hồ trữ nước ngọt được đề xuất đầu tư với tổng vốn hơn 94.300 tỷ đồng
ĐBSCL có 16 công trình xây dựng đường ven biển, kết nối vùng, đê bao chống sạt lở, hồ trữ nước ngọt được đề xuất đầu tư với tổng vốn hơn 94.300 tỷ đồng

Với 18 triệu dân (19% dân số cả nước), là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất, nhưng ĐBSCL càng chạy theo sản lượng lúa, thủy sản nuôi với việc dùng phân hóa học, thuốc hóa học bảo vệ thực vật, vật nuôi quá mức làm cho môi trường sinh thái càng xuống cấp. Ở Cà Mau, từ mấy mươi năm trước, do chính quyền bất lực, dân hầu hết các huyện tự động phá đập ngăn mặn lấy nước nuôi tôm theo phong trào, làm cho hàng vạn hécta đất trồng lúa nhiễm mặn, đến cây dừa cũng không sống nổi. Rất nhiều vụ tôm thất bại, dân thiếu gạo ăn nhưng không dễ "ngọt hóa" ruộng đồng để trồng lại lúa và hoa màu. 

Rồi thiên nhiên không thể "chiều chuộng" con người mãi, biến đổi khí hậu đã xảy ra trên toàn thế giới do con người làm trái đất nóng lên, trong đó Việt Nam là một trong những nước chịu tác động xấu nhất. ĐBSCL một mặt không còn được thiên nhiên ưu đãi nữa, mặt khác do khai thác đến mức cạn kiệt, khai thác trái tự nhiên đã làm đất đai không còn chất dinh dưỡng, sụt lún, xói lở; nước ngọt ngày càng khan hiếm khi mùa khô kéo dài. 

Có năm ĐBSCL hạn mặn đặc biệt nghiêm trọng, trong khi đầu nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc đã chặn dòng xây 10 con đập lớn, vùng trung nguồn, Thái Lan vừa làm thủy điện vừa đào hồ dẫn dòng chứa nước, Lào cũng bắt con sông Mẹ đẻ ra tiền bằng thủy điện, nên ở hạ nguồn, Việt Nam "lãnh đủ” - lãnh đủ không những thiếu nước ngọt mà phù sa không về làm cho ruộng vườn không còn màu mỡ, bờ biển lở lói vì mất chân ngăn bớt sóng. 

3. Vì những lẽ trên, ngày 17/11/2017, Chính phủ đã ra Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu. Sau khi đề cập đến những hạn chế, bất cập trong quá trình phát triển ĐBSCL mấy chục năm qua, Nghị quyết 120 nêu rõ thay đổi tư duy phát triển ĐBSCL, chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp thuần túy, chủ yếu là sản xuất lúa sang tư duy phát triển kinh tế nông nghiệp đa dạng. Chuyển từ phát triển theo số lượng sang chất lượng; xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp sạch gắn với chuỗi giá trị và xây dựng thương hiệu; chú trọng phát triển công nghiệp chế biến và công nghiệp hỗ trợ gắn với phát triển kinh tế nông nghiệp. 

Link bài viết

Đặc biệt, Nghị quyết 120 nhấn mạnh: tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên. Chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn. Có giải pháp ứng phó hiệu quả với thiên tai như bão, lũ, hạn hán và xâm nhập mặn, với các tình huống bất lợi nhất do biến đổi khí hậu. Quy hoạch vùng chuyển từ "sống chung với lũ” sang "chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn". Bên cạnh tài nguyên nước ngọt, cần xem nước lợ, nước mặn cũng là nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế. Xây dựng cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo ba trọng tâm: thủy sản - cây ăn quả - lúa gắn với các tiểu vùng sinh thái, trong đó xem thủy sản (nước ngọt, nước lợ, nước mặn) là sản phẩm chủ lực...

Với cách nhìn mới như vậy trong một nghị quyết rất quan trọng về phát triển vùng, các nhà khoa học cho rằng, Nghị quyết 120 là "nghị quyết thuận thiên", tức phát triển nhưng không can thiệp thô bạo vào thiên nhiên, không chống lại thiên nhiên, tất cả những gì thiên nhiên có đều là tài nguyên.

Gần 7 năm thực hiện Nghị quyết 120, ngành nông nghiệp ĐBSCL đã dần được cơ cấu lại theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp sinh thái, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. 

Chuyển tư duy từ "sản xuất nông nghiệp" sang "kinh tế nông nghiệp" không hề dễ, nhưng nếu từ cán bộ các cấp chính quyền đến nông dân biết chuyển từ chuỗi liên kết cung ứng nông sản sang chuỗi liên kết giá trị ngành hàng, chuyển từ nền nông nghiệp sản lượng cao sang nền nông nghiệp công nghệ cao, sinh thái, trách nhiệm, bền vững thì mục tiêu ấy rất khả thi. Thực tế đã chứng minh, gần 7 năm qua, các doanh nghiệp nông nghiệp như Công ty CP Tập đoàn Lộc Trời, Công ty CP Nam Việt, Công ty CP Xuất nhập khẩu thủy sản An Giang, Công ty CP Tập đoàn Intimex... và nhiều doanh nghiệp tại các tỉnh ĐBSCL đã đầu tư lớn cho nông dân sản xuất lúa và nuôi thủy sản "sạch" với hàng vạn hécta, tạo ra gạo, tôm, cá chất lượng cao xuất khẩu vào những thị trường "khó tính" như như Mỹ, Nhật Bản, các nước EU và nhờ thế, ở An Giang có đến gần 2.500 hộ nông dân có thu nhập trên 1 tỷ đồng/năm, có những gia đình thu nhập 16 tỷ đồng/năm.

Nhưng muốn phát triển vùng ĐBSCL đến năm 2030 trở thành trung tâm kinh tế nông nghiệp bền vững, trong đó có việc thực hiện đề án 1 triệu hécta lúa chất lượng cao của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cần rất nhiều doanh nghiệp lớn, kể cả ngân hàng đầu tư tiền của và công nghệ cao sản xuất và chế biến lương thực, thủy hải sản.

4. Đọc Nghị quyết 120, nghĩ về phát triển kinh tế nông nghiệp thuận thiên, tôi lại ao ước ĐTM lại nhiều tôm cá thiên nhiên như trong chiến tranh được cùng cô giao liên giải phóng thả câu từ khi cho gạo vào càmen đến khi cơm sôi đã dư cá ăn; lại nhớ từ mấy chục năm về trước, những lão nông ở ĐTM, ở TGLX bao đời chung sống hòa thuận với thiên nhiên nên "đã chê” cách tách dân ra khỏi mùa nước nổi, cách đắp đê bao chặn nước ngọt không phù hợp...

(0) Bình luận
Nổi bật
Đọc nhiều
Đồng bằng sông Cửu Long: Phát triển kinh tế nông nghiệp "thuận thiên"
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO