Thúc đẩy bình đẳng giới tại nơi làm việc trong kỷ nguyên mới
Sự phát triển của doanh nghiệp (DN) trong thời đại ESG phụ thuộc nhiều vào cách họ quản trị nguồn lực con người. Khi phụ nữ được nhìn nhận như chủ thể sáng tạo và đối tác chiến lược, bình đẳng giới trở thành nền tảng cho tăng trưởng bền vững, tái định hình giá trị lãnh đạo và chuẩn mực của kinh tế tri thức.
Chưa được quan tâm đúng mức
Bình đẳng giới tại nơi làm việc đã được nhắc đến trong nhiều chiến lược phát triển quốc gia, song khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn vẫn còn đáng kể. Ở nhiều ngành nghề, đặc biệt trong các lĩnh vực kỹ thuật, công nghiệp nặng hay hạ tầng công cộng, phụ nữ vẫn đứng bên lề của các vị trí ra quyết định. Nhiều người có năng lực chuyên môn tốt nhưng không được quy hoạch hoặc đào tạo cho các vị trí lãnh đạo do rào cản văn hóa và định kiến giới.
Trong ngành cấp thoát nước, một lĩnh vực gắn liền với sức khỏe cộng đồng và biến đổi khí hậu, sự chênh lệch giới thể hiện rõ nét. Báo cáo của UN Women cho thấy, phụ nữ là nhóm chịu tác động nặng nề nhất từ ô nhiễm và hạn hán, nhưng lại ít được tham gia vào quá trình hoạch định chính sách. Khi góc nhìn giới bị thiếu vắng trong quản trị ngành, các quyết sách dễ bỏ sót yếu tố xã hội, khiến giải pháp phát triển thiếu tính bền vững.
Theo số liệu của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB, 2025), phụ nữ chiếm khoảng 33% lực lượng lao động trong ngành cấp thoát nước Việt Nam, nhưng chỉ nắm giữ 7% vị trí lãnh đạo. Sự phân biệt giới thể hiện rõ qua cơ cấu nhân sự trong DN.
Cụ thể, hơn một nửa nữ lao động làm việc trong khối hành chính, 29% ở bán hàng và kế toán, chỉ 17% tham gia lĩnh vực kỹ thuật. Khoảng trống này không chỉ phản ánh sự bất bình đẳng mà còn cho thấy DN đang bỏ lỡ một nguồn lực có thể gia tăng hiệu quả vận hành và năng suất.

Nguyên nhân bắt nguồn từ định kiến giới kéo dài qua nhiều thế hệ. Ở không ít tổ chức, vai trò lãnh đạo vẫn gắn với hình ảnh nam giới, trong khi phụ nữ thường được đánh giá qua chuẩn mực “khéo léo”, “hài hòa” hơn là năng lực quản trị. Việc thiếu các chương trình huấn luyện và cố vấn nghề nghiệp dành cho nữ giới khiến họ khó tích lũy kinh nghiệm lãnh đạo. Cùng với đó, môi trường làm việc chưa thân thiện, từ cơ sở vật chất, phúc lợi sức khỏe đến chính sách linh hoạt cho phụ nữ nuôi con nhỏ là rào cản khiến họ chậm tiến về chuyên môn.
Trong khu vực DN nhà nước, tình hình có phần khả quan hơn nhưng vẫn chưa tạo được bước đột phá. Báo cáo gần đây cho thấy phụ nữ chiếm gần 50% tổng lao động, nhưng chỉ khoảng 30% giữ vai trò quản lý. Sự mất cân đối này khiến năng lực điều hành bị giới hạn ở một góc nhìn đơn nhất, trong khi nhiều nghiên cứu đã chứng minh DN có đội ngũ lãnh đạo đa dạng giới đạt hiệu quả tài chính, sáng tạo và ổn định cao hơn.
Trên phạm vi toàn cầu, vấn đề này vẫn là thách thức dài hạn. Theo UNESCO (2023), phụ nữ chiếm 31% tổng số nhà nghiên cứu và chỉ 12% thành viên các viện hàn lâm quốc gia. Họ ít có cơ hội được mời làm diễn giả hoặc tác giả chính tại các diễn đàn học thuật lớn. Sự bất bình đẳng về cơ hội, nguồn lực và ghi nhận thành tựu vẫn là rào cản khiến tiềm năng nữ giới chưa được phát huy trọn vẹn, ngay cả trong môi trường tri thức vốn đề cao công bằng.
Cởi trói tiềm năng nữ giới
Tại một hội thảo gần đây, GS.TS. Nguyễn Thị Thanh Mai - Phó giám đốc Đại học Quốc gia TP.HCM nhận định rằng sự tham gia của phụ nữ trong khoa học và công nghệ là điều kiện cần để các thành tựu nghiên cứu phục vụ tốt hơn cho cộng đồng. Theo bà, mô hình “ba nhà” gồm nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp chỉ vận hành hiệu quả khi có sự kết nối của nữ trí thức, những người thường có khả năng liên kết đa ngành và đưa góc nhìn nhân văn vào sáng tạo.
Nhiều nhà khoa học nữ Việt Nam đang ghi dấu ấn trong lĩnh vực y sinh, nông nghiệp thông minh, biến đổi khí hậu và khởi nghiệp công nghệ. Họ mang tri thức ra khỏi phòng thí nghiệm, kết nối nghiên cứu với nhu cầu thực tế của DN, đồng thời lan tỏa chính sách khoa học gần gũi, dễ tiếp cận và hướng đến phát triển bền vững.
Cùng với tiến trình hội nhập, Nghị quyết 68 về kinh tế tư nhân và Nghị quyết 57 về khoa học - công nghệ đã mở rộng biên độ đổi mới, đưa hoạt động nghiên cứu ra khỏi khuôn khổ viện trường. Tại DN, bộ phận nghiên cứu và phát triển (R&D) ngày càng đóng vai trò trung tâm. Môi trường làm việc đa dạng và bình đẳng giúp khơi dậy khả năng sáng tạo, nâng cao năng suất và củng cố sức cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Trong bối cảnh đó, bình đẳng giới trở thành một yếu tố kinh tế mang tính định lượng. Khung ESG (môi trường - xã hội - quản trị) đang được các nhà đầu tư quốc tế xem là chuẩn mực phát triển. DN muốn tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu cần minh chứng năng lực ESG, trong đó chỉ số giới là tiêu chí bắt buộc. Tư duy coi bình đẳng giới như một nguồn lực phát triển giúp doanh nghiệp mở rộng hợp tác, tiếp cận nguồn vốn và khẳng định thương hiệu.
Từ định hướng này, chương trình GEARS@VN ra đời với sự hỗ trợ của Chính phủ Australia thông qua sáng kiến Investing in Women, phối hợp cùng Trung tâm BSA và DN xã hội ECUE. Mục tiêu của chương trình là thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong kinh tế, đồng thời hỗ trợ DN Việt Nam đo lường và thực hành ESG trong quản trị nhân sự.
Ra mắt từ tháng 1/2025, GEARS@VN triển khai ba nhóm hoạt động trọng tâm gồm đo lường và tư vấn cải thiện chỉ số bình đẳng giới tại nơi làm việc thông qua bộ công cụ GEARS; truyền thông và tôn vinh các sáng kiến tiêu biểu qua Câu lạc bộ Doanh nghiệp tiên phong thúc đẩy Bình đẳng giới; và kết nối doanh nghiệp với nguồn vốn đầu tư tác động. Các hoạt động này giúp hình thành cộng đồng DN có chung tầm nhìn, chia sẻ kinh nghiệm và lan tỏa giá trị tích cực trong xã hội.
Giai đoạn 2025-2026, GEARS@VN dự kiến tiến hành nghiên cứu về bình đẳng giới trong các ngành xuất khẩu chủ lực như thủy sản, dệt may, da giày, gỗ và nội thất. Kết quả sẽ được tích hợp vào Báo cáo phát triển bền vững của DN, góp phần củng cố vị thế Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu và nâng cao sức hút đầu tư quốc tế.
PGS.TS. Huỳnh Thành Đạt - Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương nhấn mạnh rằng phụ nữ là lực lượng tiên phong trong kỷ nguyên số. Để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của nữ giới, ông đề xuất 5 nhóm giải pháp cụ thể, gồm hoàn thiện khung pháp lý và chính sách tài trợ khoa học có lồng ghép chỉ tiêu giới; xây dựng môi trường làm việc linh hoạt, an toàn; phát triển mạng lưới cố vấn nữ trí thức; đào tạo kỹ năng lãnh đạo và quản trị; đồng thời tăng cường truyền thông, tôn vinh gương nữ tiêu biểu.
“Khi được trao quyền và ghi nhận xứng đáng, phụ nữ sẽ trở thành động lực đổi mới, góp phần thúc đẩy xã hội tiến về phía trước bằng tri thức, bản lĩnh và giá trị nhân văn”, ông nhấn mạnh.