Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, cả nước hiện có 429 hồ đập thủy điện với các quy mô khác nhau. Theo đó, năng lượng thủy điện là nguồn năng lượng tái tạo rất quan trọng, ô nhiễm ít, khí thải nhà kính gần như không có. Vì vậy, quản lý và khai thác nguồn năng lượng tái tạo này thế nào để giảm thiểu tác động đến môi trường, phát huy tối đa hiệu quả là rất quan trọng.
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết, từ lâu phát triển thủy điện đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của Quốc hội, Chính phủ trong hoạt động giám sát và chỉ đạo điều hành. Nhất là sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết 62/NQ-QH13 năm 2013 về tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện và Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ ban hành chương trình hành động của Chính phủ về thực hiện nghị quyết này của Quốc hội. Theo đó, công tác về phát triển thủy điện và quản lý an toàn hồ thủy điện và vận hành các công trình thủy điện đã được bảo đảm hơn.
Hằng năm đều có các cuộc kiểm tra giám sát chặt chẽ, đầy đủ theo đúng Nghị quyết 62 của Quốc hội về mức độ an toàn của các hồ đập thủy điện, sự vận hành của hệ thống các hồ đập thủy điện, nhất là sự tham gia của các hồ đập này trong phòng chống bão lũ, thiên tai tại địa phương. Đồng thời, thực hiện kiểm soát chặt chẽ không cho thủy điện xâm dụng đến rừng tự nhiên, từ năm 2016, Bộ Công Thương đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương không bổ sung bất kỳ một công trình thủy điện nào nếu sử dụng đất rừng tự nhiên. Diện tích chiếm dụng đất trên các dự án được bổ sung quy hoạch đã giảm mạnh, chỉ còn 1,9ha cho 1MW điện. Điều này cho thấy chúng ta thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc theo chỉ đạo của Quốc hội.
Về đánh giá hiệu quả của thủy điện nhỏ và vừa, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết đã đưa ra khỏi quy hoạch của thủy điện 472 dự án, trong đó có 8 dự án thủy điện bậc thang, 213 điểm tiềm năng cho phát triển thủy điện. Liên quan đến vận hành của hồ đập thủy điện và an toàn hồ đập, có hàng loạt công cụ pháp lý với nhiều đạo luật để điều chỉnh các hoạt động của thủy điện.
Chính phủ mới ban hành Nghị định 114/NĐ-CP năm 2018 về quản lý an toàn đập và hồ chứa nước. Theo đó, các bộ ngành đang tổ chức hướng dẫn thi hành để bảo đảm an toàn của hồ đập thủy điện, thủy lợi, giảm thiểu tác động tiêu cực trong phòng chống bão lụt, thiên tai. Đồng thời, đã phân cấp và xác định rõ trách nhiệm, quy trình để bảo đảm yếu tố này. Yêu cầu các chủ hồ đập phối hợp với chính quyền địa phương thiết lập các hệ thống giám sát, quan trắc tự động về khí tượng thủy văn, đo mưa, giám sát hệ thống vận hành của các nhà máy thủy điện căn cứ trên lượng mưa về nhà máy và lượng xả nước về hạ du, có phương án phòng chống bão lụt tại địa phương, bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân.
Về hiệu quả và nguy cơ đặt ra trong việc xả lũ, Bộ trưởng cho biết, công cụ pháp lý để quản lý tương đối đầy đủ, tuy nhiên cũng không tránh khỏi ở một số địa phương chủ hồ đập thực thi không nghiêm như thủy điện Hố Hô năm 2016 xả lũ gây ngập lụt hạ du đã bị thu giấy phép tham gia hoạt động điện, phạt nặng, khắc phục triệt để mới cho tham gia thị trường điện.
Đề cập đến sự quan tâm của nhân dân và dư luận xã hội về thủy điện ảnh hưởng như thế nào đến bão lụt, nguy cơ sạt lở đất và động đất, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nêu rõ, qua khảo sát thực tế nghe báo cáo của các địa phương và đánh giá của các nhà chuyên môn và của cơ quan chức năng, thì trước mắt, phải khẳng định những câu chuyện sạt lở đất mà gây ra những tổn hại rất nghiêm trọng về người và của tại Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam gắn chặt với những yếu tố dị thường và cực đoan của thời tiết.
Bộ trưởng dẫn chứng, theo con số từ các báo cáo của cơ quan chức năng, lượng mưa tại Quảng Bình, Quảng Trị cũng như của Quảng Nam, Quảng Ngãi vào thời điểm này là rất lớn, đến mức độ hàng nghìn mét khối giây. Ví dụ như tại Trà My, lượng mưa lên tới hơn 2.500 mét khối của cả thời kỳ; thời gian hoàn lưu bão của cơn bão số 9 kéo dài đến 6 tiếng đồng hồ. Đây là những nguy cơ rất lớn và đã tạo ra tác động đến cấu tạo địa chất cũng như các điều kiện đất đai và các địa phương và gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng.
“Tất nhiên, những câu chuyện liên quan đến tác động của vấn đề mất rừng đầu nguồn và thảm thực vật rồi mất độ kết dính của đất là những vấn đề do tác động của con người thông qua các dự án thủy điện, cũng như các dự án khác là những vấn đề chúng ta không thể phủ nhận trong một mức độ chừng mực nhất định. Tuy nhiên, do biến đổi khí hậu và những yếu tố rất cực đoan của thời tiết, chúng tôi cho rằng, câu chuyện để đối phó với thiên tai, bão, lũ là một câu chuyện mới. Chúng ta phải đặt công tác nghiên cứu khoa học và đưa ra những cảnh báo một cách cụ thể hơn nữa. Đặc biệt là bản đồ của các khu vực sụt lún cũng như các nguy cơ biến đổi cực đoan của khí hậu là vấn đề rất lớn mà chúng ta phải dự báo cho công tác phòng, chống thiên tai cũng như là về phát triển kinh tế xã hội”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nói.
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cũng cho biết, tới đây Bộ Công Thương sẽ làm việc với các địa phương và các bộ, ngành để nghiên cứu cụ thể, đánh giá về những mặt còn hạn chế, những mặt tích cực, để từ đó sẽ có tham mưu chính sách với Chính phủ để tiếp tục siết chặt quản lý trong phát triển thủy điện, làm sao để hạn chế tối đa những tác động tiêu cực nếu có và đồng thời tiếp tục khai thác tốt những nguồn tài nguyên của đất nước.