Những bài học từ liên doanh

HỒNG NGA| 20/10/2009 06:18

Theo đà phát triển của nền kinh tế, việc liên doanh giữa các doanh nghiệp (DN) trong nước và các tập đoàn nước ngoài ngày càng nở rộ.

Những bài học từ liên doanh

Theo đà phát triển của nền kinh tế, việc liên doanh giữa các doanh nghiệp (DN) trong nước và các tập đoàn nước ngoài ngày càng nở rộ. Thế nhưng, không phải sự hợp tác nào cũng đạt kết quả như mong muốn và đã có nhiều liên doanh tan rã vì “Đồng sàng dị mộng”!

Chọn người đủ tầm

Liên doanh với nước ngoài là xu thế tất yếu. Đó là nhận định của hầu hết các chuyên gia về xu hướng phát triển kinh tế của Việt Nam khi nước ta mở cửa thị trường. Trong thời gian đầu mở cửa, các đối tác nước ngoài thường “dựa” vào DN trong nước để nhờ giải quyết thủ tục hành chính, giấy tờ. Rất ít các trường hợp liên doanh thật sự mà đối tác tìm thấy “sức mạnh nội lực” của DN Việt Nam. Vì thế, một khi đã đạt được mục đích thì phía đốc tác nước ngoài sẽ kiếm cớ đẩy DN Việt Nam ra khỏi liên doanh và “thâu tóm” công ty. Nếu chúng ta kém cảnh giác thì rất dễ rơi vào tay họ. – một doanh nhân có kinh nghiệm trong liên doanh với nước ngoài cảnh báo.

Để hoạt động của liên doanh “xuôi chèo mát mái”, phần vốn của phía Việt Nam được bảo tồn và ngày càng phát triển, các chuyên gia tư vấn cho rằng, người đại diện cho phía Việt Nam phải là người “có tầm”. Nghĩa là phải có kiến thức quản lý; có trình độ ngoại ngữ; thông hiểu luật pháp (trong nước và quốc tế); phải biết tập hợp tất cả trí tuệ của công nhân viên, kể cả chuyên gia nước ngoài thông qua hoạt động của các tổ chức đoàn thể. Người lãnh đạo phải có chuyên môn vững vàng cộng với tinh thần cảnh giác cao độ, có bản lĩnh để đối phó với nhiều tình huống có thể gây bất lợi cho phía “ta”

Trường hợp của Công ty TNHH Nhà máy Bia Việt Nam (VBL) là một điển hình cho liên doanh thành công. Thành lập năm 1991, VBL là liên doanh giữa Tổng công ty thương mại Saigon (Satra) và tập đoàn Asia Pacific Breweries Ltd. (APBL), có trụ sở tại Singapore, liên kết với Heineken N.V. (Hà Lan). Theo ký kết ban đầu, Satra góp 40% vốn và phía đối tác 60%. Cũng như các liên doanh khác, thời gian đầu, mọi hoạt động của VBL gần như do phía nước ngoài chi phối. Thậm chí, ngay cả Phó tổng giám đốc phía Việt Nam cũng không được tham gia điều hành hoạt động của liên doanh.

Bắt đầu từ năm 2000, khi được điều về nhận nhiệm vụ quản lý đồng vốn Nhà Nước trong liên doanh tại VBL với chức vụ Phó tổng giám đốc, ông Nguyễn Nhất Minh đã yêu cầu thay đổi toàn bộ điều lệ liên doanh. Không chỉ thế, tỷ lệ vốn của phía Việt Nam cũng đã tăng lên 51%. Đội ngũ chuyên gia 18 người nước ngoài đã được thay thế bằng người Việt và hiện tại đã có 12 chuyên gia của VBL là người Việt. Hiện tại, mọi hoạt động của công ty về tổ chức, nhân sự, lao động, tiền lương và các chế độ chính sách khác đều thông qua biểu quyết của hội đồng quản trị.

So với nhiều đối thủ trong ngành bia, VBL là một tên tuổi lớn với 4 nhà máy trong cả nước, sản xuất gần 10 nhãn hiệu bia Heineken, Tiger, Bivina, Amber Stout, Coors Light, BGI, Foster’s, Larue, Larue Export, Larger… Trong đó, bia Heineken và Tiger là hai dòng bia cao cấp được ưa chuộng trong cả nước.

Nhưng, nếu người đại diện cho DNVN không có cái nhìn sắc sảo, không đủ thông tin để nắm vững và phán đoán được tình hình thì cũng dễ gây những thua thiệt cho “phía ta”. Coca Cola và P&G Việt Nam là hai ví dụ điển hình. Sau chưa đầy chục năm hoạt động, hai liên doanh này đã hoàn toàn thuộc về DN nước ngoài.

Và tìm hình thức hợp tác phù hợp

Để việc hợp tác kinh doanh đạt được mục đích và có hiệu quả, ngoài yếu tố con nguời, vấn đề cần cân nhắc đầu tiên là hình thức và và điều kiện hợp tác. Một hợp đồng liên doanh không chặt chẽ và thiếu sự xem xét đến những yếu tố phát sinh có thể dẫn đến những thua thiệt lớn cho DN trong nước. Hiện tại, trong một số trường hợp liên doanh dù vẫn còn hoạt động, nhưng “phía ta” đang gặp không ít khó khăn. Một trong số ấy là mạng di động S-Fone.

Đây là liên doanh giữa Công ty cổ phần Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT) và Công ty SK Telecom (Hàn Quốc). Dự án có thời hạn hoạt động 15 năm (từ 2002 - 2016) với mục tiêu xây dựng hệ thống mạng thông tin di động tại Việt Nam. Chỉ tiêu ban đầu của dự án là cung cấp dịch vụ cho 700.000 đến 1 triệu thuê bao di động CDMA với tổng vốn đầu tư 230 triệu USD. Trong đó, SPT đóng góp các tài sản vô hình (thương quyền kinh doanh dịch vụ thông tin di động, quyền sử dụng tần số, kho số) và 11 triệu USD còn SK Telecom góp 218 triệu USD.

Sau 6 năm cung cấp dịch vụ tại Việt Nam, S-Fone đang phải đối diện với những thách thức về đầu tư, công nghệ, hạn chế trong các vấn đề pháp lý, vốn đầu tư, cơ chế điều hành từ mô hình BCC (hợp đồng hợp tác kinh doanh)…

Ông Hồ Hồng Sơn - Giám đốc điều hành S-Fone cho biết, S-Fone là một trung tâm trực thuộc SPT nhưng hoạt động theo cơ chế của BCC, nên không được phép vay vốn hoặc kêu gọi đầu tư trực tiếp từ nguồn khác. Trong khi đó, dù thời gian của BCC là đến năm 2016 nhưng đến năm 2005, S-Fone đã triển khai hết các nguồn lực đầu tư và các điều kiện cam kết của hai bên. Muốn có nguồn lực mới để S-Fone tiếp tục phát triển buộc phải có hình thức/thoả thuận hợp tác mới: hoặc là duy trì mô hình BCC có điều chỉnh hoặc là chuyển sang hình thức liên doanh.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đọc nhiều
Những bài học từ liên doanh
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO