E ngại hàng giá rẻ tràn vào Việt Nam

13/01/2010 01:15

VN bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế cho các mặt hàng Trung Quốc để đến năm 2015, 90% dòng thuế sẽ về 0-5%. Liệu hàng Trung Quốc có ồ ạt vào VN thời gian tới?

E ngại hàng giá rẻ tràn vào Việt Nam

VN bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế cho các mặt hàng Trung Quốc để đến năm 2015, 90% dòng thuế sẽ về 0-5%. Liệu hàng Trung Quốc có ồ ạt vào VN thời gian tới?

Ngành dệt may trong nước sẽ vất vả hơn khi thuế suất nhập khẩu cho hàng Trung Quốc giảm về 0-5%. Trong ảnh: may hàng xuất khẩu tại Xí nghiệp may Hiệp Bình Phước 4 - Ảnh: T.V.N.

Ông Lê Quang Lân - phó vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công thương) - cho biết:

- Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) bắt đầu thực thi từ năm 2005. Mục tiêu của hiệp định là trong mười năm sẽ tạo ra khu vực thương mại tự do, không thuế quan giữa các nước ASEAN - Trung Quốc. Năm 2010 là một năm quan trọng với sáu nước ASEAN cũ là Singapore, Philippines, Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Brunei khi 90% dòng thuế sẽ giảm xuống mức 0-5%, trong đó chủ yếu là 0%. Riêng VN từ năm 2010 cũng bắt đầu cắt giảm để đến năm 2015, 90% dòng thuế đối với hàng Trung Quốc sẽ về 0-5%. Tuy thực hiện chậm hơn nhưng ta vẫn được hưởng đầy đủ ưu đãi của Trung Quốc như các nước ASEAN khác.

* Hàng Trung Quốc chưa được giảm thuế đã tràn ngập, hiệp định này sẽ mở ra những thách thức lớn hơn đòi hỏi doanh nghiệp VN cần nhanh chóng nhận thức và vào cuộc?

- Phải nói thách thức khi cắt giảm thuế quan với hàng Trung Quốc là rất lớn, tuy nhiên VN cũng có cơ hội. Thực tế trong chương trình thu hoạch sớm, mặc dù VN chưa giảm thuế mạnh cho Trung Quốc nhưng phía Trung Quốc đã giảm thuế trước cho hàng VN. Vì vậy, nhiều mặt hàng nông sản của VN đã xuất khẩu mạnh vào Trung Quốc thời gian gần đây.

Trên nguyên tắc, chương trình thu hoạch sớm rất có lợi cho VN với nhiều hàng nông sản như rau quả, thủy, hải sản... được giảm thuế. Vì vậy, riêng những mặt hàng theo chương trình thu hoạch sớm VN lúc nào cũng xuất siêu. Chương trình đang mang lại nhiều lợi ích cho VN vì tất cả hàng nông sản xuất vào Trung Quốc đều cơ bản đã có thuế suất 0%. Từ năm 2004 đến nay, năm nào ta cũng xuất siêu. Riêng năm 2008 trong chương trình thu hoạch sớm, VN xuất khẩu sang Trung Quốc 365 triệu USD, nhập khẩu 131 triệu USD.

Chúng ta cũng bước đầu xuất khẩu được nhiều sản phẩm may mặc, giày dép, thiết bị sang Trung Quốc với tỉ trọng ngày một tăng. Tôi xin nhấn mạnh doanh nghiệp của ta vẫn cần chủ động hơn nữa để tận dụng ưu đãi của ACFTA trong các năm tới.

* Nhưng từ năm 2010 VN sẽ phải bắt đầu giảm thuế cho hàng Trung Quốc?

- Với VN, năm 2010 chưa phải là thời điểm quyết định vì những dòng thuế cao của ta sẽ chưa về mức 0-5%, mà chủ yếu sẽ về mức 10-20%. Mức thuế như vậy thì việc bảo hộ vẫn mang tính hiệu quả. Trung Quốc và các nước ASEAN 6 hoàn thành giảm thuế xuống 0-5% đối với 90% dòng thuế vào năm 2010, nhưng với VN thực hiện chậm hơn năm năm. Lộ trình đến năm 2015 VN sẽ cắt giảm thuế từ 0-5% và từ năm 2015 trở đi sẽ cắt giảm đến 0%. Có hơn 8.000 dòng thuế như vậy sẽ phải cắt giảm. Các doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị kỹ càng để có thể cạnh tranh hiệu quả.

* Đáng chú ý, VN sẽ phải cắt giảm thuế cho nhiều mặt hàng VN đang cạnh tranh vất vả và cũng là hàng thế mạnh của Trung Quốc như dệt may, giày da...?

- Đúng vậy, Bộ Tài chính đã công bố lộ trình đến năm 2011. Một số nhóm mặt hàng cần bảo hộ nhất chúng ta đã đưa vào nhóm mặt hàng nhạy cảm cao, tức sẽ chỉ giảm thuế đến mức 50%. Với nhóm “nhạy cảm”, lộ trình cắt giảm thuế cũng chậm hơn, đến năm 2015 mức thuế mới xuống khoảng 20% và sẽ tiếp tục giảm xuống 5% vào năm 2020. Các doanh nghiệp cần theo dõi chặt chẽ lộ trình giảm thuế này.

Theo hiệp định, một số sản phẩm trong lĩnh vực dệt may, hàng tiêu dùng, đồ chơi... sẽ cắt giảm về mức 0-5%. Như vậy, một số ngành sản xuất trong nước không có khả năng cạnh tranh sẽ phải cơ cấu lại hoặc rút lui khỏi thị trường. Tuy nhiên, ở đây cũng phải nhìn ra cơ hội cho doanh nghiệp nước ta. Tỉ trọng nhập khẩu nguyên liệu sản xuất từ Trung Quốc rất lớn. Việc cắt giảm thuế sẽ giúp doanh nghiệp VN tiếp cận nguyên liệu dễ và rẻ hơn, từ đó giúp hàng sản xuất trong nước cạnh tranh hơn.

Có một thực tế là nhiều hàng tiêu dùng trong nước thường bị cạnh tranh do hàng giá rẻ, kém chất lượng của Trung Quốc bị thẩm lậu qua đường tiểu ngạch. Khi thuế giảm, mức chênh lệch giữa nộp thuế và đi theo tiểu ngạch không đáng kể thì hàng lậu sẽ giảm, người ta sẵn sàng đi theo chính ngạch, ta sẽ quản lý được mà lại giảm thiểu hàng nhập lậu. Hàng VN sẽ cạnh tranh bình đẳng hơn.

* Thưa ông, gần đây một số nước ASEAN đề nghị hoãn thực hiện hiệp định thương mại tự do với Trung Quốc vì lo hàng của Trung Quốc sẽ tràn ngập. VN đã nhận được và xử lý thông tin này chưa?

- Chúng tôi chưa nhận được thông tin chính thức nào từ phía Indonesia. Nhưng việc Indonesia yêu cầu hoãn hoặc giãn tiến độ thực hiện cam kết giảm thuế do sức ép cạnh tranh quá khốc liệt trong một số nhóm hàng là có thể xảy ra.

Trong quá trình đàm phán, kịch bản này đã được đặt ra rồi ở hai khả năng. Thứ nhất, một nước khi chứng minh được việc giảm thuế theo hiệp định khiến nhập khẩu một số mặt hàng tăng mạnh, gây tổn hại cho các doanh nghiệp trong nước thì được tiến hành biện pháp tự vệ và được tạm dừng nhập khẩu. Nếu đạt sự đồng thuận, họ có quyền tạm thời chưa cắt giảm thuế trong vòng ba năm và có thể được kéo dài thêm một năm, tức tối đa bốn năm. Khả năng thứ hai cao hơn, một quốc gia có quyền yêu cầu đàm phán lại lộ trình cắt giảm thuế. Điều đó hoàn toàn được phép trong hiệp định nhưng với điều kiện phải được sự đồng thuận chung, đặc biệt từ nước bị ảnh hưởng.

* Trong điều kiện hàng Trung Quốc gây thiệt hại lớn cho VN, chúng ta có thể tự vệ hay yêu cầu đàm phán lại không, thưa ông?

- Thông thường để tự vệ hay đàm phán lại thì cần sự trao đổi, đồng thuận. Các nước có thể tự vệ nhưng thường phải theo ngành hàng chứ không thể cùng một lúc đưa ra một loạt sản phẩm. VN trong quá trình thực hiện nếu có những ngành hàng nào gặp khó khăn thì ta cũng có quyền yêu cầu được tự vệ hoặc điều chỉnh cam kết. Nhưng thật ra điều này cần cân nhắc, vì khi mình tự vệ thì họ cũng sẽ cân nhắc rút một số ưu đãi cho mình.

* Ông Diệp Thành Kiệt (phó chủ tịch Hội Dệt may thêu đan TP.HCM):

Hàng rào kỹ thuật vẫn chưa hoàn chỉnh

Với ngành dệt may, các doanh nghiệp kinh doanh tại thị trường nội địa chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu Chính phủ và các doanh nghiệp không lên kế hoạch đối phó với thực trạng hàng giá rẻ đổ bộ hợp pháp vào thị trường trong nước một cách quyết liệt. Nội lực của các doanh nghiệp trong nước chưa thật sự đủ mạnh, đủ lớn để có thể đương đầu chịu sức ép mở cửa vô điều kiện (thuế suất 0%), trong khi các hàng rào kỹ thuật cần thiết vẫn chưa hoàn chỉnh.

Chẳng hạn chúng ta chỉ mới có quy định tạm thời về giới hạn cho phép đối với hàm lượng formaldehyde, các amin thơm có thể giải phóng ra từ thuốc nhuộm azo trong các điều kiện khử trên sản phẩm dệt may đối với sản phẩm nhập khẩu, sản xuất và kinh doanh tại thị trường VN, trong khi hàng loạt tiêu chuẩn khác về độ bền chắc, chống cháy, dễ phân hủy... chúng ta vẫn chưa có thì làm sao “gác cửa” được thị trường nội địa?

* Ông Nguyễn Đức Thuấn (chủ tịch Hiệp hội Da giày VN):

Vẫn kịp, nếu có sự chuẩn bị

Chúng ta vẫn có thể cạnh tranh được nếu Chính phủ và các doanh nghiệp có sự chuẩn bị một cách hệ thống, đầu tư bài bản vào hệ thống kênh phân phối, chủ động khâu nguyên phụ liệu và các ngành công nghiệp phụ trợ liên quan. Với lộ trình từ 3-5 năm, tôi nghĩ chúng ta vẫn còn đủ thời gian để các bộ ngành xây dựng được những tiêu chuẩn, hàng rào kỹ thuật, không chỉ bảo vệ được quyền lợi của người tiêu dùng trong việc lựa chọn sử dụng các sản phẩm có xuất xứ từ Trung Quốc mà còn có thể bảo vệ được nền sản xuất trong nước một cách hợp lý. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước chủ

Kể từ ngày 1/1/2010, Hiệp định về thành lập vùng thương mại tự do giữa Trung Quốc và Hiệp hội các quốc gia châu Á- Thái Bình Dương (ASEAN) có hiệu lực.

Có thể coi đây là đối thủ cạnh tranh chính của Liên minh châu Âu (EU) và vùng thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Liên minh này là lớn nhất về dân số, liên kết 1/3 cư dân thế giới và đang đứng thứ ba toàn cầu về sức mạnh kinh tế. Đây cũng là lần đầu tiên có hình thức liên kết tương tự, nhưng thành phần thuần túy gồm những quốc gia đang phát triển, trong đó có những nước thuộc loại quốc gia có tiềm năng khổng lồ. Các chuyên gia kinh tế cho rằng chỉ vài năm nữa các thành viên trong liên minh mới này sẽ cải thiện một cách đáng kể các chỉ số của mình.

Ngoài ra, thủ lĩnh không cần bàn cãi của khối liên kết là Trung Quốc, với nền kinh tế đang sải những bước dài về phía trước. Điểm lại thương mại giữa Trung Quốc và mười quốc gia Đông Nam Á (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN) đã tăng mạnh trong những năm gần đây, từ 59,6 tỷ USD năm 2003 lên tới 192,5 tỷ USD năm 2008. Khu vực mậu dịch tự do, theo đó sẽ xóa bỏ thuế quan cho 90 hạng mục hàng hóa buôn bán, dự kiến sẽ giúp tăng khối lượng thương mại giữa hai bên lên cao hơn nữa. Đồng thời, khu vực này dự kiến cũng sẽ giúp các nước ASEAN tăng cường xuất khẩu, đặc biệt là những mặt hàng hóa mà Trung Quốc vốn đang “đói khát” tài nguyên thèm muốn. Các nhà phân tích kinh tế cho rằng, khu vực thương mại tự do Trung Quốc - ASEAN đối mặt với ít sự phản đối hơn so với các khu vực mậu dịch tự do ở châu Âu hay khu vực Bắc Mỹ, có thể vì những mức thuế quan hiện nay vẫn ở mức thấp và không có khả năng để thay đổi các mô hình thương mại một cách triệt để.

Tuy nhiên, một số nhà sản xuất ở Đông Nam Á quan ngại rằng, hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc có thể sẽ tràn ngập các thị trường của họ một khi các loại thuế quan nhập khẩu bị xóa bỏ, khiến cho họ gặp nhiều khó khăn trong việc giữ lại hoặc tăng thị phần nội địa. Inđônêxia tỏ ra lo ngại về vấn đề này đến mức đã có kế hoạch yêu cầu trì hoãn việc xóa bỏ thuế quan đối với một số mặt hàng như các sản phẩm sắt thép, dệt may, hóa dầu và điện tử. Ông Sothirak Pou, một thành viên nghiên cứu cấp cao thỉnh giảng tại Viện nghiên cứu các vấn đề Đông Nam Á ở Xingapo, đã nói rằng: “Không phải tất cả mọi người ở ASEAN đều cho rằng khu vực thương mại tự do Trung Quốc - ASEAN là một lợi thế”.

Trong những năm gần đây, các nước ASEAN và Trung Quốc đã giảm nhiều loại thuế quan. Tuy nhiên, theo như hiệp định thương mại tự do (FTA), được hai bên ký kết năm 2002, Trung Quốc, Inđônêxia, Thái Lan, Philíppin, Malaixia, Malaixia, Xinhgapo và Brunây, sẽ phải xóa bỏ tất cả các loại thuế quan vào năm 2010. Những thành viên ASEAN còn lại như Campuchia, Lào, Việt Nam và Mianma sẽ giảm từ từ các loại thuế quan trong những năm tới và xóa bỏ hoàn toàn vào năm 2015.

Hầu hết các loại hàng hóa được miễn thuế vào tháng giêng, bao gồm các mặt hàng sản xuất, hiện nay đang phải chịu mức thuế nhập khẩu khoảng 5%. Một số sản phẩm nông nghiệp và phụ tùng mô tô, xe máy và máy móc hạng nặng vẫn phải chịu các mức thuế quan trong năm 2010 nhưng sẽ được xóa bỏ dần dần.

Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã vượt qua Mỹ để trở thành đối tác thương mại lớn thứ ba của ASEAN, sau Nhật Bản và Liên minh châu Âu (EU). Ông Thomas Kaegi, Trưởng bộ phận nghiên cứu kinh tế vĩ mô phụ trách khu vực châu Á - Thái Bình Dương tại Ngân hàng UBS Wealth Management Research, nói rằng cán cân thương mại tổng thể đang nghiêng về phía có lợi cho Trung Quốc mặc dù vẫn còn có những khác biệt lớn về cân bằng thương mại giữa các nước ASEAN với Trung Quốc. Xinhgapo, Malaixia và Thái Lan có thâm hụt thương mại rất nhỏ với Trung Quốc, trong khi đó thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc đã tăng mạnh trong những năm gần đây. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc là 4,5 tỷ USD, nhưng kim ngạch nhập khẩu lên tới 15,7 tỷ USD.

Tại Inđônêxia, các ngành công nghiệp sắt thép và dệt may đặc biệt lo ngại về việc xóa bỏ thuế quan, khiến cho chính phủ nước này phải tuyên bố rằng sẽ tìm cách yêu cầu trì hoãn việc thực hiện một số điều khoản. Không có khung thời gian nào cho việc đệ trình yêu cầu được đưa ra, nhưng Ban Thư ký ASEAN nói rằng vẫn chưa nhận được yêu cầu chính thức từ phía Inđônêxia.

Các nhà phân tích cho rằng, trong khi việc cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu nhiều hơn từ phía Trung Quốc sẽ tạo ra nhiều thách thức mới đối với các nhà sản xuất của ASEAN thì việc tiếp cận với thị trường 1,3 tỷ dân của Trung Quốc cũng có thể đem lại những lợi ích quan trọng. Rodolfo Severino, người đã từng giữ cương vị Tổng thư ký ASEAN từ năm 1998 đến năm 2002, xác định Malaixia, hiện đang xuất khẩu dầu cọ, cao su và khí đốt tự nhiên sang Trung Quốc, là một trong số những nước có thể được hưởng lợi nhiều nhất từ việc xóa bỏ các loại thuế quan. Nhưng các quốc gia như Việt Nam vốn tập trung vào việc sản xuất các loại mặt hàng tiêu dùng giá rẻ sẽ bị tổn thương nhiều nhất. Ông Severino, hiện nay làm Giám đốc Trung tâm nghiên cứu ASEAN của Viện nghiên cứu các vấn đề Đông Nam Á ở Xingapo, nói rằng những nước này cần phải tìm kiếm những hàng hóa xuất khẩu mới và xác định những mảng thị trường mới.

Nhà nghiên cứu Sothirak, người đã từng làm Bộ trưởng Công nghiệp, Mỏ và Năng lượng của Campuchia từ năm 1993 đến 1998, nói rằng việc xóa bỏ các loại thuế quan có thể sẽ giúp tăng xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp của nước này tới Trung Quốc. Ông Sothirak nhận định, Campuchia cần đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu của mình bởi vì hàng hóa xuất khẩu của nước này tới châu Âu và Mỹ đã giảm sút. Về việc xuất khẩu hàng dệt may, Campuchia không hy vọng có đủ sức cạnh tranh với ngành công nghiệp may mặc đã phát triển cao của Trung Quốc, nhưng ông Sothirak nói, ông tin rằng hiệp định FTA có thể sẽ thu hút nhiều nhà máy may mặc của Trung Quốc thành lập các cơ sở sản xuất ở Campuchia nơi mà giá nhân công và chi phí sản xuất rẻ hơn.

Hiển nhiên, sự hợp tác của Trung Quốc và các nước ASEAN với những đối tác phương Tây truyền thống vẫn sẽ được tiếp nối đồng thời cũng giảm dần mức độ phụ thuộc. Xét về phía Nga, thì sự hợp tác Trung Quốc – ASEAN cũng tạo điều kiện cho Nga củng cố mối liên kết và sự hội nhập vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Ông Andrei Ostrovski, Phó giám đốc Viện Viễn Đông – Viện Hàn lâm khoa học Nga, nói: "Các nước Đông Nam Á và Trung Quốc đều tổn thất ở mức độ nhỏ nhất bởi khủng hoảng và vào thời điểm này lại đang phát triển với nhịp độ nhanh chóng. Giao thương với những quốc gia này cho phép Nga trong thời gian ngắn sẽ giải quyết vấn đề phát triển kinh tế trên địa bàn Viễn Đông và Đông Xibiri. Vì vậy, Nga nên phát triển quan hệ với các nước này của khu vực.

Tất nhiên, liên minh mới sẽ là thực thể kinh tế mà các đấu thủ khác trên thế giới cần phải tinh đến. Hoạt động hiệu quả của nó có thể sẽ thúc đẩy cả Nhật Bản và Hàn Quốc cũng ký kết những văn kiện tương ứng cùng với Trung Quốc và ASEAN, điều mà lúc này các bên đã bộc lộ mối quan tâm.

Ông Pushpanathan, Sundram, Phó Tổng Thư ký ASEAN phụ trách Cộng đồng Kinh tế ASEAN, thừa nhận rằng sẽ có “một số thiệt hại liên quan” đến một số quốc gia khi hiệp định FTA Trung Quốc - ASEAN có hiệu lực, nhưng cả Trung Quốc và ASEAN sẽ “cùng có lợi”. Bất chấp những kỳ vọng về việc tăng khối lượng thương mại, ông Severino dự đoán rằng việc hình thành khu vực mậu dịch tự do sẽ không phải là “một sự kiện đột phá” để giúp cho thương mại trong khu vực tăng lên đột biến kể từ tháng 1/2010.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đọc nhiều
E ngại hàng giá rẻ tràn vào Việt Nam
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO