“Nước Mỹ trên hết” và những cái chợ không cần Mỹ
Chính sách"Nước Mỹ trên hết" của Tổng thống Donald Trump, vô tình trở thành chất xúc tác thúc đẩy các nền kinh tế khác tăng cường liên kết và hợp tác. Những “cái chợ mới” đang được hình thành và mở rộng xem Mỹ chỉ là một đối tác vãng lai: không thể bỏ qua nhưng cũng không thể kỳ vọng lâu dài.
Chính sách “Nước Mỹ trên hết” nhằm đưa sản xuất trở lại Mỹ. Theo đó, Chính quyền Donald Trump thực hiện hàng loạt biện pháp như hướng đến giảm thuế nội địa để khuyến khích doanh nghiệp sản xuất tại chỗ, cắt giảm chi tiêu cho bộ máy hành chính và các chương trình an sinh xã hội. Đồng thời đồng thời thu hẹp ngân sách dành cho giáo dục và nghiên cứu khoa học, giảm các chương trình viện trợ quốc tế. Ngược lại, ưu tiên tăng mạnh chi tiêu quốc phòng và các hoạt động kiểm soát biên giới.
Chính sách này được dự đoán dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách ngày càng nghiêm trọng. Để bù đắp thâm hụt, chính quyền Trump thực tăng thuế quan nhằm vừa tạo nguồn thu ngân sách, vừa bảo hộ sản xuất trong nước. Còn quá sớm để nói về hiệu quả của chính sách này, nhưng có thể thấy “Nước Mỹ trên hết” phản ánh tư duy khép kín và vị kỷ, làm cho các đối tác giảm niềm về chính quyền Mỹ, thế giới không còn nhìn Washington như một điểm tựa chiến lược đáng tin cậy.
Sức mạnh của một cường quốc thường biểu hiện qua tầm ảnh hưởng trong mạng lưới quan hệ rộng lớn, nơi giá trị được tạo ra và trao đổi liên tục. Để duy trì sự thịnh vượng, cần sự bao dung, tinh thần sẻ chia và ý thức kiến tạo chung; ngược lại, sự ích kỷ và khép kín sẽ làm nghèo đi chính họ và khiến cả mạng lưới xung quanh suy yếu. Chính sách “Nước Mỹ trên hết” đang trái ngược với quy luật duy trì sức mạnh của một cường quốc, có nhiều dấu hiệu làm mờ nhạc đi vai trò của Mỹ trong cộng đồng quốc tế.
Niềm tin vào Mỹ bị lung lay
Nhờ xây dựng được mạng lưới liên minh rộng khắp và thể hiện vai trò đối tác tin cậy, có trách nhiệm, Mỹ trở thành trung tâm của trật tự kinh tế, chính trị toàn cầu. Từ đó, Mỹ trở nên giàu mạnh, là điểm đến để các quốc gia học hỏi, hợp tác và tìm kiếm cơ hội. Quyền lực mềm của Mỹ được duy trì mạnh mẽ qua đồng USD, Thung lũng Silicon, Hollywood và hệ thống đại học hàng đầu thế giới.

Tuy nhiên, khi Mỹ bắt đầu dựng hàng loạt rào cản thương mại, áp thuế lên cả đối thủ lẫn đồng minh. Bất kỳ quốc gia nào có thặng dư thương mại với Mỹ đều có thể bị cáo buộc “không công bằng” và bị áp thuế. Đáng nói là ông Trump sử dụng phong cách mang màu sắc "bắt nạt" hơn là đối thoại. Thay vì mời đàm phán để xây dựng lợi ích chung, ông Trump thường phát tín hiệu bằng cách dọa áp thuế quan rồi chờ phản ứng từ phía đối tác. Trước sức ép đó, một số quốc gia chọn cách tỏ ra mềm mỏng, chủ động tìm đến bàn đàm phán để tránh leo thang căng thẳng. Nhưng cũng có những nước đáp trả mạnh mẽ, công khai tuyên bố trả đũa để bảo vệ lợi ích quốc gia.
Cách tiếp cận này có thể mang lại lợi ích ngắn hạn, nhưng về lâu dài lại làm xói mòn lòng tin, khiến các đối tác quốc tế dè chừng và gia tăng xu hướng tìm cách giảm phụ thuộc vào Mỹ. Nhiều quốc gia sẽ cho rằng nước Mỹ dưới thời Trump không còn là đối tác có thể đặt niềm tin chiến lược lâu dài. Trên bề mặt, họ có thể tỏ ra nhượng bộ, thỏa hiệp, nhưng trên thực tế, nhiều nước đang âm thầm tìm lối đi khác, nơi vai trò của Mỹ chỉ còn là một trong nhiều lựa chọn, chứ không còn là trung tâm không thể thay thế. Với họ, nước Mỹ trong thời kỳ ông Trump nắm quyền sẽ trở thành một đối tác vãng lai (khó đoán, thiếu nhất quán và mang nặng tính mặc cả ngắn hạn), một đối có thì tốt, không có cũng không sao. Tinh thần “đa phương không Mỹ” bắt đầu lan rộng, một số quốc gia thậm chí hướng tới mục tiêu xây dựng thị trường đối trọng, một trật tự thương mại, tài chính mới không cần đến Mỹ.
Những “cái chợ” xem Mỹ chỉ là đối tác vãng lai
Khi Mỹ đơn phương tuyên bố áp thuế đối ứng với hơn trăm quốc gia. Từ lúc đó, nhiều nước bắt đầu nghĩ đến một chiến lược phát triển mới theo hướng không xem Mỹ là đối tác đáng tin cậy. Các nước dần nhận ra, ông khách hàng lớn của mình ngày càng đòi hỏi vô lý, một mặt họ cân nhắc đáp ứng yêu cầu, mặt khác họ tìm kiếm thị trường mới. Thị trường Mỹ bán được thì tốt, không bán được cũng không sao, đó là tâm thế mới của nhiều quốc gia, dù kết quả đàm phán thuế quan có như thế nào.
Cái “chợ” toàn cầu từng do Mỹ dẫn dắt và giữ vai trò trung tâm nay đang chuyển mình theo một trật tự mới phân tán hơn, linh hoạt hơn và mang tính đa cực rõ nét hơn. Nhiều “tiểu chợ” khu vực đang xuất hiện và mở rộng, khi các nền kinh tế vừa và nhỏ ngày càng chủ động kết nối với nhau, kiến tạo những hệ sinh thái thương mại riêng, thay vì phụ thuộc vào một đầu mối duy nhất là Mỹ.
Châu Âu đang theo đuổi chiến lược tự chủ chiến lược (strategic autonomy), đầu tư vào năng lực công nghiệp then chốt như bán dẫn và quốc phòng, đồng thời tích cực ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác như Nhật Bản, Canada, Việt Nam... Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, các quốc gia đã hình thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Trung Quốc giữ vai trò dẫn dắt trong RCEP, khối thương mại lớn nhất thế giới hiện nay. Ấn Độ đẩy mạnh đàm phán FTA với các nước phương Tây; còn châu Phi đã hình thành Khu vực mậu dịch tự do lục địa (AfCFTA), một bước tiến quan trọng hướng đến hội nhập nội khối. Tất các các khối liên kết kinh tế đều không có Mỹ.
Những chuyển động này phản ánh một thực tế về trật tự thương mại toàn cầu đang bước sang một giai đoạn mới, không còn quốc gia nào có thể tự xem mình là “người giữ chợ” duy nhất. Nếu không có Mỹ, phần còn lại của thế giới vẫn tiếp tục vận hành để mở rộng mạng lưới hợp tác và phát triển. Thế giới đang hướng đến các mạng lưới thương mại đa cực, cân bằng và khả năng thích ứng cao trước biến động.
Sản xuất không quay về Mỹ và niềm tin cũng không
Chính sách tự cho mình là trên hết, sử dụng quyền lực bắt nạt đối tác, thậm chí bắt nạt đồng minh, không chỉ ảnh hưởng đến niềm tin của đối tác, mà còn giảm sức ảnh hưởng của chính mình. Chính sách thuế quan, doanh nghiệp Mỹ chẳng những không nhận được lợi ích từ bảo hộ mà còn gặp nhiều khó khăn hơn. Các công ty sản xuất công nghiệp của Mỹ phần nhiều là tập đoàn đa quốc giá phân bổ trên toàn cầu, thuế quan làm họ tăng chi phí nhập khẩu và tăng giá bán ra bên ngoài, dẫn đến giảm năng lực cạnh tranh trên toàn cầu. Một số mặt hàng tiêu dùng thiết yếu như dệt may, da giày,… không phải là lợi thế sản xuất của nước Mỹ, các nhà bán lẻ nhập hàng về phân phối phải chịu thuế cao hơn, họ bắt đầu tính đến phương án tăng giá bán, người tiêu dùng Mỹ sẽ phải trả thêm tiền, doanh nghiệp bán lẻ cũng sẽ giảm lợi nhuận. Nếu duy trì lâu mức thuế cao có lẽ DN sẽ tính đến việc rời khỏi nước Mỹ.
Trên thực tế, để ứng phó với chính sách thuế quan của Mỹ, nhiều tập đoàn công nghệ lớn đã đẩy mạnh chiến lược đa dạng hóa chuỗi cung ứng, nhưng không phải đưa sản xuất về Mỹ. Apple đã tăng tốc đầu tư sản xuất tại Ấn Độ với mục tiêu sản xuất toàn bộ iPhone dành cho thị trường Mỹ nhằm tránh thuế nhập khẩu cao và giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Samsung hiện vẫn đặt phần lớn dây chuyền tại Việt Nam hoặc cân nhắc đến một quốc gia khác cũng không có dự định đến Mỹ. Trong khi đó, Foxconn và Intel đã đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam để đa dạng hóa chuỗi cung ứng và giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc.
Qua đó cho thấy thuế quan không phải là công cụ duy nhất để các nhà đầu xem xét lựa chọn nơi sản xuất, mà còn rất nhiều yếu tố khác như đặc điểm nhân khẩu, cơ sở hạ tầng, môi trường chính sách và nơi có khả năng kết nối tốt với phần còn lại của thế giới. Tất cả những thay đổi này cho thấy xu hướng chung sản xuất không về Mỹ, mà là “chia nhỏ” và “phân tán” để thích nghi với một thế giới thương mại đang ngày càng khó đoán.
Đối với người tiêu dùng Mỹ, các chính sách thuế quan đã dẫn đến việc tăng giá hàng hóa và giảm lựa chọn sản phẩm. Nhiều thương hiệu lớn như Walmart, Mattel, Subaru, Ford, Nike và Adidas đã thông báo tăng giá sản phẩm để bù đắp chi phí gia tăng từ thuế nhập khẩu. Người tiêu dùng Mỹ đang phải trả giá cao hơn và có ít lựa chọn hơn do tác động của các chính sách này.
Chính vì thế, chính sách thuế quan mới của Tổng thống Trump đã vấp phải làn sóng phản đối mạnh mẽ cả trong và ngoài nước. Nhiều doanh nghiệp lớn cùng các hiệp hội ngành hàng lên tiếng chỉ trích vì chi phí sản xuất tăng, chuỗi cung ứng gián đoạn và nguy cơ mất thị phần toàn cầu. Người tiêu dùng Mỹ cũng chịu thiệt khi giá hàng hóa leo thang, đặc biệt là điện tử và quần áo. Một số tiểu bang đã yêu cầu tòa liên bang dừng áp dụng thuế quan với lý do cho rằng ông Trump đã vượt thẩm quyền khi tuyên bố tình trạng khẩn cấp quốc gia để áp đặt thuế lên các đối tác.
Hiệu quả của chính sách “Nước Mỹ trên hết” và các biện pháp thuế quan của chính quyền Trump vẫn còn là điều chưa thể đánh giá đầy đủ. Nhưng rõ ràng, đây không phải là một chiến lược “cùng thắng”, không chỉ với các đối tác, mà cả với doanh nghiệp và người tiêu dùng Mỹ. Chính sách này đang khiến thế giới tăng tốc liên kết và mở rộng thị trường mới. Những “cái chợ mới” xem Mỹ là đối tác vãng lai: không thể bỏ qua, nhưng cũng khó đặt kỳ vọng lâu dài.