Bài học quản lý thị trường vàng Trung Quốc và Ấn Độ

30/09/2013 07:05

Trung Quốc từ chỗ đóng kín thị trường vàng đã từng bước tự do hoá mọi giao dịch và gặt hái thành công. Trong khi Ấn Độ theo hướng ngược lại nhưng vẫn chưa thể khiến người dân bớt yêu vàng.

Bài học quản lý thị trường vàng Trung Quốc và Ấn Độ

Trung Quốc từ chỗ đóng kín thị trường vàng đã từng bước tự do hoá mọi giao dịch và gặt hái thành công. Trong khi Ấn Độ theo hướng ngược lại nhưng vẫn chưa thể khiến người dân bớt yêu vàng.

Dưới đây là ý kiến của tiến sĩ Tô Ánh Dương - Viện Kinh tế Việt Nam về câu chuyện quản lý thị trường vàng ở hai môi trường gần và khá tương đồng với Việt Nam. Tham luận của tiến sĩ Dương được gửi tới Diễn đàn Kinh tế mùa Thu 2013, nơi vàng cũng là chủ đề được tranh luận sôi nổi.

1. Kinh nghiệm quản lý thị trường vàng của Trung Quốc

Tại Trung Quốc, hoạt động kinh doanh vàng được thống nhất quản lý bởi đầu mối duy nhất là Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (People’s Bank of China-PBOC – Ngân hàng Trung ương của Trung Quốc).

Trong giai đoạn từ năm 1949 đến 2001, Trung Quốc thực hiện kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng, PBOC đóng vai trò độc quyền thị trường vàng trong nước. Tuy nhiên, cùng với việc tự do hóa thị trường tài chính, Trung Quốc đã có những bước tiến mạnh mẽ trong việc tự do hoá từng bước thị trường vàng.

Về cơ bản, kế hoạch tự do hoá thị trường vàng của Trung Quốc cũng bao gồm 3 giai đoạn như nhiều nước khác, đó là: (i) Giai đoạn 1: Xoá bỏ chế độ độc quyền kinh doanh vàng và cơ chế kiểm soát giá, đồng thời thành lập Sở giao dịch vàng Thượng Hải; (ii) Giai đoạn 2: Từng bước xoá bỏ cơ chế cấp phép đối với hoạt động sản xuất, bán buôn và bán lẻ vàng, bước đầu là đối với hoạt động bán lẻ, sau đó cho phép cá nhân được tham gia giao dịch vàng miếng; (iii) Giai đoạn 3: Xoá bỏ từng bước chế độ quản lý xuất nhập khẩu vàng. Trên cơ sở các bước nêu trên, PBOC đã ban hành các quy định theo hướng nới lỏng quản lý hoạt động kinh doanh vàng.

Dưới đây là những mốc quan trọng trong tiến trình tự do hoá thị trường vàng của Trung Quốc.

- Giai đoạn 1991-2000: Trước năm 1991, tại Trung Quốc, nhu cầu tiêu thụ vàng phát triển chậm, chỉ vào khoảng 80 tấn mỗi năm, rất thấp nếu tính theo đầu người.

Trong giai đoạn 1991-2000, nhu cầu tiêu thụ vàng bắt đầu tăng mạnh và đạt mức trung bình 270 tấn do những cải cách kinh tế và bắt đầu quá trình tự do hóa. Tuy nhiên, thị trường vàng vẫn chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước từ khâu sản xuất cho đến khâu phân phối bán lẻ.

Trong giai đoạn này, PBOC hoàn toàn độc quyền thị trường vàng trong nước từ khâu khai thác, tinh chế, gia công lẫn hoạt động mua bán, xuất nhập khẩu vàng. Các công ty khai thác vàng sau khi tinh chế thành vàng miếng phải bán lại cho các chi nhánh của PBOC, sau đó PBOC sẽ bán lại cho các công ty vàng bạc đá quý chuyên gia công vàng trang sức.

Các công ty này sau đó được phép bán vàng trang sức cho dân chúng. Các hãng kinh doanh vàng trang sức chỉ được phép mua vàng nguyên liệu từ PBOC và bán nhưng không được phép mua lại vàng trang sức từ dân chúng.

Người dân muốn bán vàng trang sức để lấy tiền mặt sẽ bán tại các chi nhánh của PBOC. Ngoài ra, giá cả mua bán vàng đều phải áp dụng giá do PBOC quy định.

PBOC quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng dưới dạng cấp phép xuất nhập khẩu cho các công ty được phép với số lượng tuỳ vào từng thời điểm. Nhờ đó mà Ngân hàng Trung ương kiểm soát được số lượng vàng trong nước.

Trung Quốc ngày càng cởi mở hơn trong quan điểm quản lý thị trường vàng miếng

Tuy nhiên, do giá vàng mua vào mà Nhà nước quy định thường thấp hơn nhiều so với vàng bán ra nên đã hình thành thị trường mua bán vàng ngầm trong dân cư.

Mặt khác, cơ chế độc quyền trong phân phối và kiểm soát giá đã làm cho giao dịch trên thị trường bị méo mó, giá cả không tuân theo quy luật cung cầu trong khi nhu cầu vàng người dân lại ngày càng cao. Tình trạng này làm tăng lượng vàng nhập lậu kém chất lượng từ các nước có chung đường biên giới với Trung Quốc.

Nhận thấy tình hình tiêu cực trên, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã đổi mới, từng bước xóa bỏ cơ chế độc quyền trong sản xuất, kinh doanh và phân phối vàng.

- Giai đoạn từ 2001-2006: Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001. Đây cũng là năm đánh dấu mốc quan trọng trong việc tự do hoá thị trường vàng của Trung Quốc.

Tháng 4/2001, Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa lần đầu tiên chính thức công bố kế hoạch xoá bỏ cơ chế quản lý độc quyền trong mua và phân phối vàng, bãi bỏ việc kiểm soát và ấn định giá vàng cũng như giảm thuế suất.

Hiệp Hội Vàng Trung Quốc (CGA) và Sở/Sàn giao dịch vàng Thượng Hải (Shanghai Gold Exchange - SGE) được thành lập. Đây được coi là bước đột phá trong chính sách quản lý thị trường vàng của Trung Quốc sau hơn 50 năm thực hiện kiểm soát chặt chẽ.

Đặc biệt, vào tháng 11/2001 Trung Quốc xoá bỏ chế độ cấp phép đối với hoạt động sản xuất, bán buôn và bán lẻ vàng trong nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vẫn chưa được phép tham gia vào lĩnh vực này.

Hoạt động của Sở giao dịch vàng Thượng Hải (SGE)

Để quản lý thị trường vàng hiệu quả mà vẫn đảm bảo nhu cầu kinh doanh vàng bạc của dân chúng, Trung Quốc đã thành lập Sở giao dịch vàng Quốc gia vào tháng 11/2001, hoạt động độc lập như một Sở Giao dịch Chứng khoán.

Sở giao dịch vàng Thượng Hải (Shanghai Gold Exchange – SGE) là pháp nhân độc lập do Nhà nước đầu tư vốn 100% (vốn điều lệ đăng ký là 30.000.000 RMB, tương đương khoảng 4,2 triệu USD), thời gian hoạt động là 50 năm. Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa là cơ quan quản lý, giám sát toàn bộ hoạt động của SGE.

Hội đồng quản trị của Sàn do NHTW tiến cử, hầu hết các vị trí quan trọng và chủ chốt trong Ban Quản trị của Sàn đều do Ngân hàng Trung ương bổ nhiệm. SGE có chế độ báo cáo thường xuyên và đột xuất nhờ đó mà Ngân hàng Trung ương Trung Quốc vẫn giữ được quyền chủ động trong mọi quyết định của SGE.

Vào tháng 10/2002, Sở giao dịch vàng Thượng Hải chính thức đi vào hoạt động. Đây là sàn vàng vật chất giao ngay (spot gold). Sản phẩm được phép giao dịch lúc đầu là vàng miếng đạt tiêu chuẩn quốc tế, sau đó mở rộng sang các kim loại quý khác như bạch kim và bạc.

Để thực hiện giao dịch vàng vật chất, SGE có hệ thống thành viên là các công ty cung cấp dịch vụ lưu kho, bảo quản và giao nhận vàng. Ban đầu, chỉ nhà đầu tư là tổ chức mới được phép tham gia giao dịch trên SGE, nhà đầu tư cá nhân chưa được phép tham gia.

SGE có hệ thống thành viên là các tổ chức kinh tế trong nước, gồm: các công ty kinh doanh vàng (công ty khai thác, chế tác, xuất nhập khẩu vàng); các định chế tài chính và các thành viên chủ chốt.

Các thành viên này là các nhà tạo lập thị trường, tham gia giao dịch, làm đại lý nhận lệnh, thực hiện chức năng ngân hàng thanh toán hoặc cung cấp dịch vụ kho bãi, giao nhận. Tại thời điểm đi vào hoạt động, SGE có 108 thành viên.

Theo số liệu thống kê trên website của Sở giao dịch vàng Thượng Hải, giá vàng giao dịch trên SGE (đơn vị CNY/g) tương đối sát với giá thế giới (đơn vị USD/ounce) nếu cộng cả thuế và các chi phí nhập khẩu.

Trong khi hoạt động xuất nhập khẩu vàng đang bị quản lý dưới dạng cấp phép, giá vàng trong nước có sự liên thông với giá vàng thế giới chứng tỏ PBOC có cơ chế quản lý linh hoạt trong việc cho phép các đơn vị xuất hoặc nhập khẩu vàng khi có chênh lệch giá.

Ngoài ra, cũng có khả năng PBOC trực tiếp mua bán can thiệp thị trường nhằm bình ổn giá, hạn chế tình trạng buôn lậu vàng.

Với sự ra đời của SGE, giao dịch vàng miếng đã được thực hiện tập trung qua Sàn bằng cơ chế khớp lệnh tập trung, giá cả do cung cầu thị trường quyết định, PBOC không thực hiện quy định giá đối với giao dịch vàng miếng. Đây là sự kiện đánh dấu sự chấm dứt cơ chế độc quyền đối với thị trường vàng của Trung Quốc.

Tháng 3/2003, Trung Quốc cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được phép đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh vàng tại thị trường trong nước.

Năm 2003- 2004, cũng đánh dấu tiến trình mở cửa thị trường của Trung Quốc qua việc: (i) Bãi bỏ việc cấp giấy phép nhập khẩu vàng nguyên liệu sử dụng vào mục đích sản xuất nữ trang để tái xuất khẩu; (ii) Bãi bỏ quy định cấp giấy phép kinh doanh vàng để tự do hóa thị trường vàng nữ trang; (iii) Ngân hàng Trung Quốc (Bank of China) bắt đầu cho phép cá nhân giao dịch vàng hai chiều với thanh toán bằng tiền mặt; (iv) Ủy ban Pháp chế cho phép việc mua bán vàng vật chất tại các ngân hàng thương mại.

- Giai đoạn từ năm 2006 - nay: Tháng 12/2006, Ngân hàng Nhân dân Trung hoa ( PBOC) cho phép nhà đầu tư cá nhân được phép giao dịch vàng miếng trên SGE. Nhờ quy định này, vàng trở thành kênh đầu tư tài chính hấp dẫn cho các nhà đầu tư cá nhân cùng với kênh đầu tư khác như chứng khoán, tiền tệ, bất động sản.

Với sự tham gia của các nhà đầu tư cá nhân, tính thanh khoản của vàng trên SGE cũng được nâng lên đáng kể. Đồng thời, PBOC cũng chính thức cho phép các ngân hàng thương mại được phép cung cấp dịch vụ kinh doanh vàng tài khoản cho khách hàng cá nhân.

Kinh doanh vàng qua tài khoản là việc nhà đầu tư có thể thực hiện giao dịch mua bán vàng trên tài khoản của mình nhưng trên thực tế không diễn ra việc giao nhận vàng vật chất, cũng như không thể rút vàng vật chất từ tài khoản của mình.

Hiện nay, các nhà đầu tư cá nhân phải mở 2 tài khoản (1 tài khoản tiền thanh toán và 1 tài khoản vàng) để thực hiện giao dịch tại các Ngân hàng là thành viên của SGE. Ngân hàng cung cấp dịch vụ thực hiện chức năng trung gian, mở tài khoản cho nhà đầu tư, nhập lệnh, khớp lệnh và thu phí giao dịch.

Theo quy định của PBOC, nhà đầu tư cá nhân chỉ được phép giao dịch trong giới hạn số dư tài khoản tiền hoặc vàng của họ. Tức là ngân hàng không được phép cho nhà đầu tư vay để đầu tư vượt quá số tiền hoặc vàng họ đang nắm giữ hay không sử dụng đòn bẩy tài chính (tỷ lệ ký quỹ là 100%).

Quy định này sẽ hạn chế quy mô giao dịch vàng tài khoản nhưng sẽ giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư trong trường hợp đầu tư thua lỗ.

Giữa năm 2007, PBOC chấp thuận cho một số ngân hàng nước ngoài gồm HSBC, Standard Chartered, UBS AG và Bank of Nova Scotia (BNS) trở thành thành viên của Sàn giao dịch vàng Thượng Hải. Năm 2010, lượng vàng giao dịch tại Sàn Giao dịch Vàng Thượng Hải đạt 6.046 tấn trị giá 1,61 nghìn tỷ NDT, trong đó giao dịch vật chất là 837 tấn.

Tháng 08/2010, Chính phủ Trung Quốc nới lỏng những quy định trong hoạt động mua, bán và đầu tư vàng đối với các tổ chức tài chính và nhà đầu tư cá nhân.

Nhiều ngân hàng được phép nhập khẩu và xuất khẩu vàng, mở cửa thị trường vàng cho các tổ chức và các cá nhân. Cũng trong năm 2010, Trung Quốc cho phép quỹ đầu tư vàng đầu tiên được đầu tư ra các quỹ tín thác đầu tư vàng ở thị trường nước ngoài.

Hiện tại, Trung Quốc là nước khai thác vàng lớn nhất thế giới với sản lượng dự kiến lên tới 440 tấn năm 2013, vượt Nam Phi – nhà khai thác vàng lớn nhất thế giới năm 2007, với sản lượng đạt 403 tấn trong năm 2012.

Đồng thời, Trung Quốc là nước tiêu thụ vàng đứng thứ 2 thế giới (sau Ấn Độ, tuy nhiên sẽ sớm vượt Ấn Độ trong năm 2013 ) với mức tiêu thụ ngày càng tăng (năm 2010: 580 tấn; năm 2011: 778,6 tấn; 6 tháng đầu năm 2013: 706,36 tấn và có thể đạt 1.000 tấn cả năm 2013)

Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc chiếm 30,2% tổng dự trữ ngoại hối của thế giới vào cuối năm 2012. Tuy nhiên, tỷ lệ vàng trong tổng dự trữ ngoại hối của Trung Quốc khá khiêm tốn.

Năm 2009, Trung Quốc là quốc gia có dự trữ vàng đứng thứ 6 thế giới (sau Mỹ, Đức, IMF, Ý và Pháp) với 1054 tấn (chỉ chiếm 1,9% tổng dự trữ của Trung Quốc).

(0) Bình luận
Nổi bật
Đọc nhiều
Bài học quản lý thị trường vàng Trung Quốc và Ấn Độ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO