Đề xuất quy định về miễn trừ áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại
Bộ Công Thương đang lấy ý kiến công khai về dự thảo Thông tư hướng dẫn chi tiết một số nội dung liên quan đến biện pháp phòng vệ thương mại, trong đó có quy định về miễn trừ áp dụng các biện pháp này.
Theo dự thảo, việc miễn trừ sẽ được xem xét đối với một số loại hàng hóa nhưng phải đảm bảo không làm giảm hiệu quả tổng thể của biện pháp phòng vệ thương mại.
Bộ trưởng Bộ Công Thương sẽ quyết định miễn trừ tạm thời hoặc chính thức đối với hàng hóa nhập khẩu thuộc các trường hợp như: Hàng hóa nằm trong danh sách được miễn trừ theo quyết định áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại hoặc kết quả rà soát từng vụ việc; hàng hóa mà ngành sản xuất trong nước chưa thể sản xuất được; hàng hóa có đặc tính đặc biệt mà sản phẩm nội địa không thể thay thế; hàng hóa là sản phẩm đặc biệt của các mặt hàng tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm trong nước; hàng hóa trong nước không có sẵn trên thị trường hoặc do bất khả kháng dẫn đến thiếu hụt nguồn cung; hàng hóa nhập khẩu phục vụ mục đích nghiên cứu, phát triển hoặc phi thương mại, nằm trong tổng lượng miễn trừ được đề xuất.

Dự thảo quy định rằng tổng thời gian miễn trừ không vượt quá thời gian hiệu lực của biện pháp phòng vệ thương mại tương ứng. Bộ Công Thương sẽ xem xét miễn trừ hằng năm theo hồ sơ đề nghị. Đối với biện pháp phòng vệ thương mại tạm thời, hồ sơ phải được nộp trong vòng 7 ngày từ khi có quyết định áp dụng, và thời gian miễn trừ sẽ kéo dài từ ngày biện pháp có hiệu lực đến khi hết hạn áp dụng.
Đối với biện pháp phòng vệ thương mại chính thức, hồ sơ đề nghị miễn trừ phải được nộp trong vòng 7 ngày sau khi có quyết định áp dụng, gia hạn hoặc rà soát. Miễn trừ sẽ có hiệu lực từ ngày áp dụng đến hết ngày 31/12 của năm đó. Nếu biện pháp có hiệu lực vào tháng 10, 11 hoặc 12, thời gian miễn trừ sẽ kéo dài đến 31/12 của năm tiếp theo.
Ngoài ra, hồ sơ đề nghị miễn trừ có thể được nộp theo kỳ vào tháng 3 và tháng 9 hằng năm với thời hạn miễn trừ tính từ ngày 1/1 đến 31/12 của năm nộp hồ sơ.
Nếu hồ sơ được nộp vào tháng 10, thời hạn miễn trừ sẽ áp dụng cho năm tiếp theo. Riêng với trường hợp bổ sung lượng miễn trừ, hồ sơ có thể gửi bất cứ lúc nào và thời hạn miễn trừ bổ sung sẽ theo quyết định miễn trừ ban đầu.
Bên cạnh đó, dự thảo cũng quy định rõ các đối tượng có thể đề nghị miễn trừ, bao gồm cá nhân, tổ chức hoặc chi nhánh nhập khẩu hàng hóa bị điều tra và áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại; cá nhân, tổ chức hoặc chi nhánh sử dụng hàng hóa này để sản xuất; cùng với các cá nhân, tổ chức hoặc chi nhánh khác theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Công Thương.
Việt Nam hiện đang áp dụng nhiều biện pháp phòng vệ thương mại nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh không lành mạnh từ hàng hóa nhập khẩu.
Các biện pháp chính bao gồm thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, biện pháp tự vệ và các biện pháp kiểm soát nhập khẩu khác. Trong đó, thuế chống bán phá giá được áp dụng khi hàng hóa nhập khẩu có giá bán thấp hơn giá trị thông thường, gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa. Thuế chống trợ cấp được sử dụng để đối phó với hàng hóa được hưởng trợ cấp từ chính phủ nước xuất khẩu, làm méo mó cạnh tranh.
Biện pháp tự vệ được triển khai khi có sự gia tăng đột biến của hàng nhập khẩu gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước.
Tính đến hết tháng 9/2024, Việt Nam đã tiến hành 30 cuộc điều tra phòng vệ thương mại và đang duy trì áp dụng 22 biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng nhập khẩu. Có thể kể đến một số nhóm sản phẩm như thép, xơ sợi, đường, bột ngọt…
Tổng doanh thu hằng năm của các doanh nghiệp sản xuất trong nước tham gia các vụ việc phòng vệ thương mại ước đạt 475.000 tỷ đồng. Thu ngân sách hằng năm từ thuế phòng vệ thương mại đạt từ 1.200 đến 1.500 tỷ đồng.
Ngoài ra, Việt Nam cũng thực hiện các biện pháp kiểm soát nhập khẩu như hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu và tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm điều tiết thị trường.
Những biện pháp này không chỉ tuân thủ theo các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) mà còn phù hợp với luật pháp Việt Nam, giúp cân bằng lợi ích giữa các doanh nghiệp trong nước và thương mại quốc tế.