Tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý, khai mở nguồn lực để doanh nghiệp đổi mới công nghệ
Để đổi mới mô hình tăng trưởng cần có động lực tăng trưởng mới, trong đó phải có khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (KHCN, ĐMST và CĐS). Lực lượng doanh nghiệp (DN) phải là trung tâm, là chủ thể, nguồn lực và động lực chính trong tiến trình này. PGS-TS. Từ Diệp Công Thành - Giám đốc Trung tâm Sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ, Đại học Quốc gia TP.HCM chia sẻ với Doanh Nhân Sài Gòn về vấn đề này…
* Trước mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số vào năm 2025, TP.HCM cần tìm kiếm những động lực mới để nâng cao năng suất và tạo lợi thế cạnh tranh. Theo ông, KHCN, ĐMST và CĐS nên được tiếp cận như thế nào để giải quyết vấn đề ấy?

- Để đổi mới mô hình tăng trưởng, đạt được mục tiêu GDP trên 10% trong năm 2025, TP.HCM cần động lực tăng trưởng mới, trong đó phải có KHCN, ĐMST và CĐS. Điều quan trọng là cần xác định “điểm nghẽn” chính xác, hơn là loay hoay đi tìm động lực, những giải pháp chưa thật sự phù hợp. Thách thức lớn nhất của TP.HCM không nằm ở trình độ công nghệ hay nguồn nhân lực mà ở cách làm. Các đầu tư KHCN vẫn manh mún, thiếu định hướng ứng dụng cụ thể và chưa đẩy mạnh hợp tác quốc tế, dẫn đến kết quả nghiên cứu chưa đạt tầm cạnh tranh toàn cầu. Rào cản về cơ chế tài chính và trách nhiệm trong sử dụng ngân sách cho KHCN khiến các nhà khoa học phải tìm “vùng an toàn” thay vì đột phá.
* Trong quá trình đổi mới KHCN, ĐMST và CĐS, doanh nghiệp được xác định là trung tâm, chủ thể và động lực chính theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW. Theo ông, doanh nghiệp TP.HCM đã thực sự đảm nhận vai trò này chưa? Những rào cản nào đang cản trở họ phát huy hết tiềm năng?
- DN TP.HCM đã có những thay đổi mạnh mẽ trong nhận thức và hành động trước xu hướng KHCN, ĐMST và CĐS. Nhiều DN đầu tư vào nghiên cứu, phát triển, nhanh chóng ứng dụng công nghệ như AI, IoT, Big Data vào sản xuất, kinh doanh và quản lý; đẩy mạnh hợp tác với viện nghiên cứu, trường đại học để thúc đẩy ĐMST.
Tuy nhiên, rào cản lớn nhất là phần lớn DN có quy mô vừa và nhỏ, hạn chế về tài chính để đầu tư mạnh vào KHCN. Ngay cả các DN lớn tại TP.HCM, mức đầu tư cho KHCN vẫn chưa tương xứng với nhu cầu cạnh tranh. Tâm lý ngại rủi ro, tư duy phòng thủ và văn hóa hợp tác còn hạn chế, khiến DN chưa phát huy hết tiềm năng trong cuộc đua ĐMST.
Mặt khác, môi trường pháp lý cũng chưa thực sự thuận lợi, quyền sở hữu trí tuệ còn bị vi phạm, làm giảm động lực đổi mới. Hành lang pháp lý chưa theo kịp sự phát triển của KHCN, ĐMST, khiến DN gặp khó khăn trong triển khai. Chính sách khuyến khích và hỗ trợ chưa tạo động lực thực sự…
NQ57 được ban hành nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn pháp lý, đồng thời Bộ KH&CN đang lấy ý kiến cho Dự thảo Luật KHCN & ĐMST để cụ thể hóa NQ57 và Nghị quyết 03/NQ-CP. Dự thảo đề xuất cơ chế hỗ trợ DN như làm rõ R&D, khuyến khích ứng dụng công nghệ, ưu đãi tài chính từ quỹ nhà nước và chính sách ưu tiên mua sản phẩm ĐMST. Quốc hội cũng đang dự thảo nghị quyết thí điểm ưu đãi đầu tư, miễn giảm thuế nhập khẩu, thuế TNDN cho trung tâm ĐMST và miễn thuế TNCN với thu nhập từ nhiệm vụ KHCN sử dụng ngân sách nhà nước.
* Bên cạnh những điểm nghẽn pháp lý, việc đầu tư ngân sách cho KHCN, ĐMST và CĐS trong những năm qua vẫn còn hạn chế, trong khi các nguồn lực xã hội, đặc biệt là nguồn vốn từ khối DN chưa được khơi thông khiến nguồn lực phát triển rất khiêm tốn. Theo ông, cần giải quyết vấn đề này như thế nào?
- Nguồn lực tài chính đóng vai trò quyết định trong phát triển KHCN, ĐMST và CĐS, nhưng hiện nay dòng vốn vẫn chảy chủ yếu vào bất động sản và các lĩnh vực truyền thống. Để khơi thông nguồn vốn cho DN phát triển KHCN, ĐMST, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Cụ thể, cần có chính sách ưu đãi về thuế, phí đối với DN đầu tư vào KHCN, ĐMST và CĐS, đặc biệt là startup công nghệ. Cơ chế khuyến khích chuyển dịch dòng vốn từ bất động sản sang công nghệ cần được triển khai mạnh mẽ hơn. DN phải được tạo điều kiện tiếp cận các nguồn vốn trong nước và quốc tế. Nhà nước cần xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng, giúp DN tiếp cận quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ hỗ trợ ĐMST và các khoản vay ưu đãi từ ngân hàng, tổ chức tài chính, đồng thời phát triển thị trường vốn đa dạng hơn, từ chứng khoán, quỹ đầu tư đến nền tảng gọi vốn cộng đồng. Đặc biệt, đảm bảo cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nghiêm ngặt, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Khi quyền lợi được bảo vệ, DN và quỹ đầu tư sẽ mạnh dạn rót vốn.
* Theo ông, DN cần làm gì để tận dụng tối đa cơ hội từ làn sóng KHCN, ĐMST và CĐS, qua đó không chỉ nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn đóng góp vào sự phát triển bền vững của TP.HCM?
- DN TP.HCM muốn phát huy tối đa tiềm năng trong bối cảnh đột phá KHCN, ĐMST và CĐS cần tập trung vào bốn yếu tố cốt lõi:
Thứ nhất, nhận thức rõ vai trò “sống còn” của KHCN, ĐMST và CĐS trong chiến lược phát triển. Không theo kịp xu hướng này đồng nghĩa với nguy cơ tụt hậu, như bài học từ Nokia hay Huawei khi mất lợi thế công nghệ.
Thứ hai, DN cần chiến lược dài hạn, đầu tư mạnh vào nghiên cứu, đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực để nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện, tối ưu hóa quản lý, sản xuất, kinh doanh, marketing nhằm tăng hiệu quả và giảm chi phí.
Thứ ba, xây dựng văn hóa ĐMST và bảo hộ sở hữu trí tuệ. Khuyến khích nhân viên dám thử nghiệm cái mới, chấp nhận rủi ro, đồng thời đảm bảo cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ giúp DN giữ vững lợi thế cạnh tranh.
Thứ tư, thúc đẩy hợp tác và liên kết với các viện nghiên cứu, trường đại học để tiếp cận tri thức và công nghệ mới, đồng thời hợp tác với các DN khác để chia sẻ nguồn lực, mở rộng thị trường, hình thành hệ sinh thái ĐMST bền vững.
* Cảm ơn ông!