Phân loại 8 nhóm dự án đầu tư xanh
Hướng đến mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam đang từng bước hoàn thiện hệ thống tài chính xanh với điểm nhấn là dự thảo danh mục phân loại xanh, một công cụ định hướng các dòng vốn vào những lĩnh vực phát triển bền vững.
Tại cuộc họp về thúc đẩy tài chính xanh diễn ra ngày 25/3/2025, các chuyên gia khẳng định: Tài chính xanh hiện không còn là khái niệm mới mẻ, mà đã được luật hóa thông qua Luật Bảo vệ môi trường 2020 với hai trụ cột chính là tín dụng xanh và trái phiếu xanh.
Theo Viện Chiến lược, chính sách Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), tín dụng xanh là các khoản vay do tổ chức tín dụng cung cấp cho hoạt động sản xuất, tiêu dùng và đầu tư không gây tổn hại đến môi trường, góp phần bảo vệ hệ sinh thái. Còn trái phiếu xanh, được phát hành bởi Chính phủ, chính quyền địa phương hoặc doanh nghiệp, là kênh huy động vốn dành riêng cho các dự án mang lại lợi ích môi trường.

Để định hướng nguồn vốn xanh này một cách minh bạch và hiệu quả, Viện đã xây dựng Dự thảo Danh mục phân loại xanh, trong đó xác định 8 nhóm lĩnh vực ưu tiên, gồm: Năng lượng, giao thông vận tải, xây dựng, tài nguyên nước, nông - lâm - thủy sản, đa dạng sinh học, chế biến - chế tạo và dịch vụ môi trường.
Danh mục "xanh", bộ lọc chuẩn mực cho dòng vốn đầu tư
Dự thảo Danh mục phân loại xanh không chỉ liệt kê lĩnh vực mà còn đưa ra tiêu chí cụ thể về kỹ thuật và môi trường. Theo đó, một dự án muốn được tiếp cận tín dụng hoặc trái phiếu xanh phải thuộc nhóm ngành có lợi ích môi trường (theo Điều 149 và 150 của Luật Bảo vệ môi trường), đồng thời, đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật liên quan đến nguyên liệu, quy trình sản xuất, sản phẩm đầu ra và phương án xử lý chất thải.
Đặc biệt, Viện đề xuất mô hình xác nhận độc lập: Các tổ chức có tư cách pháp nhân, năng lực chuyên môn và hệ thống quản lý đạt chuẩn sẽ đảm nhiệm việc thẩm định, xác minh xem một dự án có thuộc danh mục xanh hay không. Các đơn vị được khuyến khích là tổ chức kiểm toán hoặc doanh nghiệp chuyên về đánh giá sự phù hợp.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp muốn được công nhận dự án xanh cần chứng minh khả năng giảm thiểu tối đa các tác động tiêu cực đến môi trường trong quá trình triển khai, kể cả khi bản chất dự án đã mang tính thân thiện môi trường.
Xây dựng nền móng tài chính xanh vững chắc
Thực tiễn hiện nay cho thấy, trong hơn 4.000 loại hình dự án đầu tư tại Việt Nam, không ít dự án đang tìm kiếm nguồn vốn xanh nhưng chưa có cơ chế phân loại rõ ràng, gây khó khăn cho các tổ chức tài chính trong việc cấp tín dụng. Bởi vậy, việc ban hành Danh mục phân loại xanh là một bước đi mang tính nền tảng, tạo hành lang pháp lý minh bạch và tăng cường khả năng tiếp cận nguồn lực cho các dự án bền vững.
Tuy nhiên, các chuyên gia lưu ý, danh mục này cần được cập nhật định kỳ để theo kịp xu thế công nghệ và tiêu chuẩn quốc tế về phát thải thấp. Đồng thời, Việt Nam cần khẩn trương xây dựng chiến lược tổng thể về tài chính xanh, bảo đảm sự đồng bộ với Luật Bảo vệ môi trường và Chiến lược Tăng trưởng xanh quốc gia. Trong đó, việc thành lập một cơ quan đầu mối quốc gia về tăng trưởng xanh là điều cấp thiết để điều phối các nguồn lực và chính sách liên quan.
Cùng với đó, việc phát triển một cơ sở dữ liệu quốc gia về các sản phẩm tài chính xanh, minh bạch, dễ tiếp cận sẽ là bệ đỡ cho hệ sinh thái tài chính xanh phát triển ổn định, bền vững.

Đầu tư cho tương lai: Cơ hội và thách thức
Theo Báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), Việt Nam cam kết giảm 15,8% lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030 bằng nguồn lực trong nước, và có thể tăng mức cắt giảm lên 43,5% nếu có sự hỗ trợ quốc tế. Tương ứng với đó, nhu cầu tài chính xanh lên tới 21,5 tỷ USD trong trường hợp tự lực, và 86,8 tỷ USD nếu có hỗ trợ bên ngoài, chủ yếu thông qua viện trợ không hoàn lại, các khoản vay ưu đãi và chuyển giao công nghệ.
Hiện tại, phần lớn dư nợ tín dụng xanh tại Việt Nam vẫn tập trung vào lĩnh vực năng lượng sạch và năng lượng tái tạo. Để mở rộng phạm vi, các chuyên gia cho rằng cần hoàn thiện các hướng dẫn đánh giá rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng, đồng thời thúc đẩy hợp tác công - tư nhằm khai thác hiệu quả các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Một báo cáo gần đây cũng chỉ ra rằng chi phí ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam có thể chiếm từ 3-5% GDP mỗi năm. Điều này cho thấy tính cấp thiết của việc hình thành một thị trường tài chính xanh mạnh mẽ, vừa giúp bảo vệ môi trường, vừa tạo động lực mới cho nền kinh tế.
Từ chỉ có 5 tổ chức tín dụng tham gia tín dụng xanh vào năm 2017, đến nay đã có 50 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh và dư nợ vào khoảng 650 nghìn tỷ đồng. Trong đó, tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; đối với nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%. Đặc biệt, dư nợ tín dụng mà các tổ chức tín dụng khi cấp tín dụng đánh giá về các rủi ro môi trường đã tăng lên khoảng 3,2 triệu tỷ đồng trong tổng số dư nợ của cả hệ thống là 15 triệu tỷ đồng.