Theo Cục Hải quan TP.HCM, đối với mặt hàng túi nilon là mặt hàng không thiết yếu và có ảnh hưởng đến môi trường rất lớn. Do đó, cần hạn chế ở mức thấp nhất việc nhập khẩu và sản xuất đối với mặt hàng này, cần xem xét xem xét tăng mức thuế đối với mặt hàng này cao hơn mức áp dụng hiện nay (50.000 đồng/kg). Sửa đổi, tăng khung thuế áp dụng đối với mặt hàng túi nylon cao hơn mức khung quy định tại Luật thuế BVMT hiện nay.
Cùng quan điểm trên, ông Nguyễn Nam Bình - Phó cục trưởng Cục Thuế TP.HCM phân tích, Luật thuế BVMT quy định biển khung thuế đối với túi ni lông từ 30.000-50.000 đồng/kg. Mức thuế thuế cụ thể hiện hành đối với túi ni lông là 40.000 đồng/kg, tương đương khoảng 200% giá bán (1kg túi ni lông có thể có từ 100-200 túi), nghĩa là thuế BVMT chỉ thu khoảng 200-400 đồng/túi. Nếu tăng mức thuế BVMT đối với túi ni lông lên mức trên 50.000 đồng/kg thì cũng chỉ tương đương 250-500 đồng/túi.
Cục Thuế TP.HCM cho rằng, khung và mức thuế BVMT đối với túi ni lông của Việt Nam thấp so với các nước trên thế giới nên chưa có tác động nhiều tới việc hạn chế sản xuất, sử dụng túi ni lông. Do đó, cơ quan này kiến nghị cần nghiên cứu điều chỉnh khung thuế BVMT đối với túi ni lông để góp phần đảm bảo mục tiêu giảm dần việc sử dụng túi ni lông khó phân hủy trong tiêu dùng và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ông Nguyễn Nam Bình cũng cho biết, mỗi năm Cục Thuế TP.HCM thu thuế BVMT khoảng 9.000 tỷ đồng. Để thực hiện hiệu quả thu thuế BVMT, lãnh đạo Cục Thuế TP.HCM đề nghị sản phẩm nhựa dùng một lần nên đánh thuế. Bởi vì, theo Cục Thuế TP.HCM, bản chất các hàng hóa này cũng là hàng hóa gây tác động xấu đến môi trường.
Cùng với đó, Cục Hải quan TP.HCM kiến nghị, Luật thuế BVMT được ban hành từ năm 2010, đến nay đã qua 9 năm thực hiện. Do đó, cần tổng kết đánh giá quá trình thực hiện, chỉ rõ các hạn chế, trên cơ sở đó sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tiễn hiện nay. Đối với mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu đề nghị đánh thuế BVMT thật cao hoặc quy định nhập khẩu có điều kiện để cơ quan quản lý chuyên ngành kiểm tra, cấp phép.