Giải pháp thu hút FDI cho Việt Nam trong bối cảnh mới
Thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu được triển khai như một “hàng rào” mới để đảm bảo công bằng và minh bạch hơn trong môi trường đầu tư.
Thách thức trong bối cảnh mới
Thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu (15%) là một trong hai trụ cột của Chương trình BEPS do OECD khởi xướng từ năm 2013, áp dụng với các tập đoàn đa quốc gia có doanh thu hợp nhất từ 750 triệu EUR trở lên. Chính sách này nhằm chặn tình trạng các tập đoàn dịch chuyển lợi nhuận sang những nước có thuế suất thấp, gây cạnh tranh không lành mạnh và thất thu ngân sách cho các nước phát triển.
Từ năm 2024, nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam đã chính thức áp dụng quy định này. Vừa mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 236/2025/NĐ-CP ngày 29/8/2025 quy định chi tiết một số điều của Nghị quyết số 107/2023/QH15 ngày 29/11/2023 của Quốc hội về việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu (thuế tối thiểu toàn cầu).
Ở Việt Nam, theo thông tin từ Cục Thuế (Bộ Tài chính) sẽ có hơn 1.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có công ty mẹ thuộc đối tượng áp dụng. Điều đáng nói là, khi Việt Nam áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, chắc chắn các nhà đầu tư nước ngoài không còn thấy sự hấp dẫn về ưu đãi thuế nữa. Trong khi đó, Việt Nam vẫn có nhu cầu tiếp tục tăng cường thu hút FDI, đặc biệt là với các lĩnh vực ưu tiên: công nghệ cao, công nghệ sạch… nên một khi công cụ “ưu đãi thuế” không còn mấy tác dụng thì phải tìm những công cụ khác ngoài thuế, miễn sao đảm bảo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn so với các đối tác khác, kể cả với các nước xuất xứ của các công ty đa quốc gia.
Vấn đề thứ hai là sự thay đổi chuỗi cung ứng ở cả quy mô quốc tế và khu vực. Kể từ khi xuất hiện đại dịch Covid-19, chuỗi cung ứng toàn cầu đã hình thành trước đây đang hoạt động khá trơn tru bỗng nhiên bị đứt gãy, gây ra nhiều hệ lụy, làm ngưng trệ, xáo trộn về kinh tế và xã hội của nhiều quốc gia, làm bộc lộ một số mặt hạn chế của các chuỗi cung ứng toàn cầu cũ. Đồng thời, trong giai đoạn phục hồi lại các chuỗi cung ứng toàn cầu, lại xuất hiện một số nhân tố mới như các cuộc xung đột vũ trang ở một số khu vực; chiến tranh thương mại, sự phát triển hết sức nhanh chóng của khoa học công nghệ mới; sự thay đổi về các chính sách thuế, đầu tư… đã dẫn đến xu hướng dịch chuyển và định hình lại các chuỗi cung ứng trên thế giới. Bài học từ đứt gãy chuỗi cung ứng đã thúc đẩy xu hướng xây dựng chuỗi cung ứng an toàn, bền vững hơn: Tăng tính linh hoạt nhờ công nghệ số và thương mại điện tử; mở rộng chuỗi theo khu vực; khuyến khích “hồi hương” sản xuất ở các nền kinh tế phát triển; và đa dạng hóa nguồn cung để giảm phụ thuộc vào một số ít đối tác.
Hai xu hướng này rõ ràng đã có những ảnh hưởng nhất định đến dòng vốn FDI, kể cả đầu tư mở rộng thêm các cơ sở hiện có lẫn đầu tư mới. Các nhà đầu tư cân nhắc nhiều hơn đến các lĩnh vực đầu tư, địa bàn đầu tư, nơi họ được mời chào trong bối cảnh những ràng buộc mang tính quốc tế mới (thuế thu nhập doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu với mức 15%) và những chính sách khuyến khích mới cả ở chính quốc lẫn các quốc gia mong muốn thu hút đầu tư.
Điều đáng lưu ý là, để đảm bảo tính khả thi, còn phải đảm đảm bảo việc triển khai một cách đồng bộ của cả hệ thống chính trị, trong đó có sự tiếp tục đổi mới của các cơ quan kiểm toán, kho bạc, công tác tuyên truyền… để mọi thành phần cùng thống nhất nhận thức và hành động.

Hướng đi nào cho Việt Nam trong chiến lược hút FDI
Để duy trì sức hấp dẫn FDI trong bối cảnh áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu 15%, Việt Nam cần bảo đảm tổng ưu đãi dành cho nhà đầu tư không thấp hơn lợi ích họ từng hưởng từ ưu đãi thuế. Khi công cụ giảm thuế không còn tác dụng, phần thu thuế bổ sung sẽ phải chuyển thành các ưu đãi khác ngoài thuế. Điều này tạo ra cạnh tranh mới giữa các quốc gia trong việc tìm ra gói hỗ trợ phi thuế khóa, từ hạ tầng, thủ tục, đến hỗ trợ công nghệ.
Một trong những giải pháp quan trọng là cải cách thủ tục hành chính để giảm chi phí chuẩn bị đầu tư. Cơ chế “một cửa” và giới hạn thời gian xử lý hồ sơ đã đem lại tiến bộ, song nhà đầu tư vẫn còn nhiều kiến nghị. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để minh bạch hóa dữ liệu và giúp doanh nghiệp dễ dàng dự báo chi phí đầu tư sẽ là bước đi cần thiết nhằm củng cố niềm tin vào môi trường đầu tư ổn định.
Một trụ cột khác là hỗ trợ về quỹ đất và mặt bằng sản xuất. Việt Nam hiện có hơn 400 khu công nghiệp được thành lập, gần 300 khu đã đi vào hoạt động với tỷ lệ lấp đầy bình quân trên 80%. Các trung tâm công nghiệp lớn như Hà Nội, TP.HCM, Đồng Nai hay Bắc Ninh đều đạt mức cao. Tuy nhiên, để đón dòng vốn mới, việc mở rộng và quy hoạch thêm hàng trăm khu công nghiệp theo kế hoạch đến năm 2030 phải được triển khai quyết liệt, tạo sẵn quỹ đất cho nhà đầu tư.
Đi cùng với quỹ đất là hệ thống hạ tầng. Lâu nay, hạ tầng trong khu công nghiệp chủ yếu do chủ đầu tư lo, còn hạ tầng ngoài khu do địa phương phụ trách. Trước bối cảnh mới, cần tính đến việc Nhà nước trực tiếp đầu tư và vận hành một số hạng mục mang tính dịch vụ công như xử lý môi trường, phòng cháy chữa cháy. Điều này vừa giảm chi phí và thủ tục cho doanh nghiệp, vừa nâng cao chất lượng dịch vụ. Riêng với các khu công nghệ cao, việc đảm bảo nguồn điện sạch, giá rẻ và có hạ tầng nghiên cứu - thử nghiệm sản phẩm sẽ là lợi thế then chốt để đáp ứng yêu cầu khắt khe từ các thị trường phát triển.
Hạ tầng xã hội cũng cần được quan tâm. Các khu công nghiệp thường phải thu hút lượng lớn lao động nhập cư, trong khi nhu cầu chỗ ở, từ nhà ở tạm cho công nhân đến căn hộ cho chuyên gia, ngày càng bức thiết. Việc phát triển nhà ở xã hội ngay trong hoặc gần khu công nghiệp không chỉ giúp giảm chi phí cho doanh nghiệp mà còn hình thành những khu đô thị công nghiệp bền vững, với đầy đủ dịch vụ thiết yếu như trường học, bệnh viện, siêu thị, công viên.
Ngoài ra, để tăng sức cạnh tranh, Việt Nam phải chú trọng chính sách nhân lực và thủ tục cho chuyên gia nước ngoài. Thủ tục visa, giấy phép lao động cần thông thoáng hơn, đặc biệt với các dự án công nghệ cao. Song song, chiến lược đào tạo nhân lực phải được triển khai quy mô lớn, gắn với các đề án quốc gia như Đề án phát triển nhân lực công nghệ cao giai đoạn 2025-2035, trong đó có mục tiêu đào tạo ít nhất 50.000 kỹ sư phục vụ ngành bán dẫn. Đây sẽ là nền tảng nhân lực quan trọng để thu hút các dự án FDI công nghệ chiến lược trong giai đoạn tới.
Những chính sách này không chỉ có tác dụng thu hút và giữ chân các nhà đầu tư FDI mà còn thuận lợi hơn cho cả các nhà đầu tư trong nước theo tinh thần cởi mở, thông thoáng và thuận lợi hơn.
(*) Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước đây)