Nhóm Thứ Sáu và lần đầu gặp ông Sáu Dân

17/04/2010 08:59

Trước hơn hai mươi quan chức, Nhóm Thứ Sáu quả quyết: “Việc ngăn sông cấm chợ đã làm lệch lạc hệ thống giá cả trong nền kinh tế...

Nhóm Thứ Sáu và lần đầu gặp ông Sáu Dân

Trước hơn hai mươi quan chức, Nhóm Thứ Sáu quả quyết: “Việc ngăn sông cấm chợ đã làm lệch lạc hệ thống giá cả trong nền kinh tế; Việc cải cách tiền lương là đúng, nhưng những biện pháp không phù hợp tiếp theo đã triệt tiêu hiệu quả của cuộc cải cách tiền lương. Cuộc cải cách giá – lương - tiền có thể đã thành công nếu Nhà nước không đổi tiền”.

Việc đổi tiền đã đánh đòn quyết định vào niềm tin mỏng manh của người dân vào đồng tiền Việt Nam và sự chạy trốn đồng bạc của người dân cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụt giá của đồng bạc.

Khi cả đoàn đã đến Hà Nội (tôi ra trước bằng máy bay, còn đoàn anh Dưỡng và anh Tước đi đường bộ), anh Dưỡng liên lạc với văn phòng ông Sáu Dân báo cho họ biết đoàn đã ra và hẹn ngày làm việc. Bên văn phòng nói là họ đã biết việc này và bảo cứ chờ, chừng nào thu xếp lịch xong sẽ thông báo cho biết.

Lần đầu diện kiến ông Sáu Dân

Chiều hôm đó, mọi người kéo nhau đi ăn tối, riêng tôi với vợ tôi vì có hẹn đến thăm nhà chị bạn mới quen nên không cùng đi. Khi chúng tôi quay về khách sạn, lúc đó khoảng 6 giờ 15 thì gặp anh Dưỡng, hối hả bảo tôi phải chuẩn bị tài liệu ngay vì ông Sáu hẹn làm việc lúc 7 giờ. Lúc đó, tôi và vợ tôi đều chưa ăn tối, nhưng không kịp nữa vì khoảng 6 giờ rưỡi là khởi hành.

Tôi chỉ kịp xem sơ lại tài liệu, nghĩ rằng buổi làm việc tối nay cũng chỉ là làm sơ bộ với các chuyên viên văn phòng của ông Sáu thôi. Cả anh Dưỡng và anh Tước cũng đều nghĩ như thế nên giục tôi đi sớm, không cần phải chuẩn bị nhiều. Thế là tôi ôm cái bụng đói cùng một mớ tài liệu lên đường. Còn nhớ ngoài ba anh em còn có cả anh Hai Đoàn và anh Trần Ngọc, Phó giám đốc công ty Cholimex .

Chúng tôi đến khu Quản Bá, nơi làm việc của Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng lúc đó, trước 7 giờ một chút. Khi bước vào hội trường, tôi cảm thấy hơi choáng váng, không biết anh Dưỡng và anh Tước có cùng cảm giác ấy không. Tôi tưởng làm việc chỉ với năm ba người chuyên viên cùng với ông Sáu, hoá ra đêm đó ở hội trường có đến hơn hai mươi người, trongđó chỉ có một người mà tôi biết vì đã từng làm việc trước đây là anh Ba Châu, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, một chức vụ tương đương với Bộ trưởng.

Chúng tôi được giới thiệu với ông Sáu Dân, đó là lần đầu tiên tôi diện kiến ông Sáu và ngay từ lần đầu trong tôi đã có một tình cảm mến mộ và kính trọng đối với ông.

Khi chủ khách an toạ, anh Vũ Quốc Tuấn - trợ lý của ông Sáu - đứng lên giới thiệu thành phần tham dự, tôi mới biết những người có mặt hôm đó gồm toàn Bộ trưởng, Thứ trưởng các Bộ có liên quan đến tài chính, kinh tế, các vị trong Ban Kinh tế Trung ương, Ban Công nghiệp Trung ương, Viện Nghiên cứu Kinh tế và các chuyên viên có tầm cỡ của Bắc Hà.

Sau đó, ông Sáu có nói vài lời ngắn gọn về nội dung buổi làm việc là nghe và trao đổi ý kiến về bản đề cương do các anh em chuyên viên ở thành phố soạn thảo như một ý kiến đề xuất về các giải pháp nhằm tháo gỡ tình hình khó khăn về kinh tế hiện nay. Ông đề nghị các anh em cứ mạnh dạn nói thẳng, nói hết ý đừng ngần ngại vì đây là một buổi trao đổi có tính chất khoa học.

Anh Dưỡng phát biểu trước, giới thiệu về đề cương và quá trình soạn thảo đề cương, nêu lên nỗi bức xúc của các anh em chuyên viên kinh tế ở thành phố về tình hình hiện nay và những khó khăn mà anh em gặp phải trong quá trình làm việc như vấn đề tư liệu, số liệu... Anh phát biểu khoảng 10 phút, giọng nói khá xúc động. Sau đó anh giới thiệu tôi trình bày đề cương.

Dùng thực tế đời sống để chứng minh

Khi đứng lên để thuyết trình, tôi cảm thấy thật sự xúc động, nếu không nói là run. Nhưng sau khi nói vài câu thì tôi bình tĩnh lại, thấy đầu óc rất sáng suốt (có lẽ nhờ bụng đói chăng), trình bày vấn đề một cách rõ ràng, mạch lạc và càng nói càng hăng, giống như được trút ra những nỗi niềm tâm sự bị dồn nén bấy lâu nay.

Về giá, tôi muốn chứng minh rằng tình trạng tăng giá hàng mà chúng ta đang chứng kiến chỉ là một sự tăng giá ảo, nó không mang lại sự kích thích sản xuất hay giải quyết công ăn việc làm như tác động thường thấy của lạm phát trong một nền kinh tế đang tăng trưởng. Mỗi người nhìn hiện tượng giá cả từ góc độ của mình và đều thấy nó khác nhau, người tiêu dùng thấy giá hàng tăng nhưng nhà sản xuất lại thấy giá không bù đắp nổi chi phí, đặc biệt người nước ngoài xài đô la tại Việt Nam sẽ thấy giá cả hàng hoá tại đây ngày càng rẻ hơn. Hầu như giá cả mọi loại hàng hoá đều giảm so với vàng và đôla.

Mặc khác, bằng những con số thực tế, tôi chứng minh rằng tình trạng ngăn sông cấm chợ mà chúng ta tạo ra đã làm lệch lạc hệ thống giá cả trong nền kinh tế như thế nào: trong khi giá 1 kg khoai mì lát tại thành phố Hồ Chí Minh là 2 đồng thì tại Ban Mê Thuật chỉ là 50 xu. Giá các mặt hàng khác cũng tương tự.

Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng mục tiêu không thay đổi của chính sách tiền tệ tại các nước kế hoạch hoá tập trung trong đó có Việt Nam là chống lạm phát bằng cách hạn chế lượng tiền đưa ra lưu thông nên nó không thể tạo ra lạm phát đúng nghĩa mà chỉ có thể tạo ra suy thoái và sự kiệt quệ sức sản xuất.

Và chính vì lượng hàng hoá cung ứng cho nền kinh tế luôn luôn thấp so với nhu cầu, tình trạng tăng giá suy thoái xảy ra triền miên và chúng ta không thể khắc phục tình trạng này bằng việc tiếp tục hạn chế khối tiền tệ. Nếu để tình trạng này tiếp tục diễn ra sẽ dẫn đến hiện tượng phi tiền tệ hoá nền kinh tế, người dân hoặc sẽ dùng vàng và đôla làm phương tiện thanh toá, cất giữ hoặc sẽ trở lại thời kỳ hàng đổi hàng.

Về lương, việc cải cách tiền lương là đúng, nhưng những biện pháp không phù hợp tiếp theo đã triệt tiêu hiệu quả của cuộc cải cách tiền lương. Tôi có nói, cuộc cải cách giá - lương - tiền có thể không gây ra những hậu quả nặng nề đối với nền kinh tế nếu Nhà nước không đổi tiền.

Việc đổi tiền đã đánh đòn quyết định vào niềm tin mỏng manh của người dân vào đồng tiền Việt Nam và sự chạy trốn đồng bạc của người dân cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụt giá của đồng bạc.

Trong phần kiến nghị, tôi có đề nghị mấy điểm chính như chấm dứt tức khắc tình trạng cấm chợ ngăn sông bằng cách trước tiên bãi bỏ các trạm kiểm soát hàng hoá trên các trục lộ giao thông, áp dụng một chính sách tiền tệ tích cực nhằm hỗ trợ cho sản xuất phát triển, cải tổ hệ thống ngân hàng để tạo sự tín nhiệm cho người gửi tiền, chuẩn bị những loại tiền có mệnh giá lớn như 100 ngàn đồng chẳng hạn và đặc biệt phải công bố cho người dân biết là Chính phủ sẽ không bao giờ đổi tiền nữa.

Khi tôi kết thúc phần trình bày, đã gần 8giờ30. Ông Sáu đề nghị nghỉ giải lao 10 phút, trong thời gian đó chúng tôi được chiêu đãi một chén chè đậu xanh hay hạt sen gì đó. Thôi thì cũng tạm đỡ đói. Sau đó trong phần thảo luận, có khá nhiều chuyên viên Bắc Hà tỏ ra đồng tình với đề cương của chúng tôi. Cũng có một vài câu hỏi, nhưng chủ yếu là để làm sáng tỏ vấn đề, không phải để cật vấn. Chính chúng tôi cũng không ngờ đạt được một sự nhất trí cao như vậy.

Sau này, anh Dưỡng kể lại có một vài người gặp anh và nói: "Các anh nói đúng những điều chúng tôi nghĩ mà không dám nói ra". Ông Sáu Dân có vẻ rất thích thú, cuối buổi họp ông đến hỏi thăm từng anh em chúng tôi, khi được biết trong đoàn, anh Dưỡng và tôi có đưa bà xã ra thăm Hà Nội, ông liền dặn trước khi về Sài Gòn mời đoàn đến gặp ông và mời luôn cả hai phu nhân đi theo đoàn không chính thức.

Lần đầu gặp ông Sáu, tôi gọi ông bằng bác. Thật ra lúc đó trông ông trẻ trung và khoẻ mạnh lắm. Ông bảo cứ gọi bằng anh cho thân mật nhưng tôi nói vì tôi là đồng nghiệp của con gái ông nên theo lễ phải gọi ông bằng bác. Sau này, không hiểu vì sao tôi lại đổi cách xưng hô và gọi ông là chú Sáu.

Trước khi ra về, anh Ba Châu có đến gặp và đề nghị chúng tôi đến Ngân hàng Nhà nước để trình bày thêm cho anh và các vị lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước nghe về đề tài này. Chúng tôi vui vẻ nhận lời. Ông Nguyễn Văn Trân, lúc đó là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung ương cũng đến gặp chúng tôi và ngỏ lời mời tương tự. Chúng tôi cũng nhận lời và đề nghị ông bố trí ngày giờ thuận tiện.

Khoảng 10 giờ chúng tôi mới trở về khách sạn. Trong đoàn ai nấy đều vui vì đánh giá buổi trình bày là thành công. Về đến khách sạn, bà xã đưa cho ăn cái bánh gì đó, hình như là bánh giò với chả lụa, nhưng lúc đó bụng thấy hết đói rồi.

Những ngày hôm sau, chúng tôi tiếp tục làm việc cũng về đề tài nói trên tại Ngân hàng Nhà nước và Viện Kinh tế. Tôi không nhớ rõ về buổi làm việc tại Viện Kinh tế, chỉ còn giữ ấn tượng về ông Nguyễn Văn Trân là một người tầm thước, rất tinh tế và lịch sự.

Riêng buổi làm việc tại Ngân hàng Nhà nước, tôi có cảm tưởng các vị bên ngân hàng không đồng tình cho lắm về cách đánh giá và nhận định của đề tài. Họ không nêu ý kiến cụ thể nhưng có vẻ không hưởng ứng, một vài người tỏ vẻ nghi ngờ các số liệu trong đề cương, có anh cho rằng những con số lấy tại thành phố Hồ Chí Minh không đủ để chứng minh cho cả nền kinh tế. Riêng anh Ba Châu tỏ ra rất quan tâm, anh xin một bản copy của đề cương, cám ơn chúng tôi và hẹn khi vào thành phố sẽ đến gặp anh em và đặt hàng về một đề tài khác.

Cũng trong thời gian đó, ông Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cho người mời chúng tôi đến trao đổi với ông một buổi tại Bộ Ngoại giao. Buổi sáng hôm ấy, ông Thạch cho xe đón ba người chúng tôi đến Bộ làm việc trực tiếp với ông và ông Vũ Khoan, lúc đó là Vụ trưởng. Ông Vũ Khoan không nói gì, chỉ ngồi ghi chép. Ông Thạch hỏi rất nhiều, chúng tôi thay phiên nhau trả lời và giải thích về cơ sở các nhận định của mình trong đề cương.

Tôi nhớ ông có hỏi một câu về phân phối lương thực: Nhà nước có nên tiếp tục quản lý chặt không? Tôi trả lời nếu Nhà nước cứ tiếp tục ép nông dân phải bán gạo cho Nhà nước với giá thấp thì sản xuất lương thực sẽ không tăng được và nước ta tiếp tục thiếu gạo. Cần phải cho phép người nông dân bán nông phẩm thặng dư cho bất cứ ai và đến bất cứ nơi nào. Trước nay ta vẫn có ác cảm với tư thương, nhưng tư thương là ai? Họ chính là nông dân hay gia đình của nông dân, hoặc ít ra cũng là người giúp đỡ nông dân tiêu thụ sản phẩm.

Ông Thạch có vẻ đồng tình với nhiều ý kiến của anh em chúng tôi, đặc biệt được chúng tôi thuyết phục là tình hình tiền mặt lưu thông lúc đó đang thiếu chứ không phải thừa. Ông tâm sự rất thích đọc quyển Kinh tế học của Samuelson và cũng nhận định là cần phải có một cuộc cải cách mạnh mẽ về kinh tế.

Những ngày tiếp theo thực sự là những ngày thảnh thơi. Tôi có cảm giác làm tròn được một công việc có ý nghĩa. Những ngày sau đó, vợ chồng tôi la cà thăm viếng 36 phố phường của Hà Nội và được anh Hai Đoàn đưa đến gặp ông Vũ Kỳ, người giúp việc cho Bác Hồ trước đây, nay đã là một cụ già tráng kiện, quắc thước với mái tóc bạc phơ. Ông kể cho chúng tôi nghe những giai thoại thú vị về cuộc đời Bác, đưa chúng tôi đi xem căn nhà sàn nơi Bác làm việc với cách bài trí hết sức đơn giản, mộc mạc....

Buổi chiều hôm trước ngày về, đoàn có ghé thăm ông Sáu Dân. Ông tiếp chúng tôi vui vẻ, thân mật và cho biết đề nghị của chúng tôi về việc giải toả các trạm kiểm soát hàng hoá đã được thực hiện. Quả nhiên, khi chúng tôi xuôi về Nam bằng đường bộ, suốt dọc đường gần hai ngàn cây số không còn một trạm kiểm soát nào. 

(0) Bình luận
Nổi bật
Đọc nhiều
Nhóm Thứ Sáu và lần đầu gặp ông Sáu Dân
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO