Báo cáo cho thấy bức tranh tổng thể về tình hình nguồn lao động tại Việt Nam. Theo đó, Việt Nam xếp thứ 47/60 thị trường lao động toàn cầu về tổng chỉ số nguồn nhân lực, đứng cuối cùng trong số 11 quốc gia thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Dựa trên kết quả báo cáo, có thể thấy đặc điểm nổi bật của nhân lực tại Việt Nam là nguồn cung dồi dào, nhưng còn hạn chế về trình độ kỹ năng.
Khoảng 50,74 triệu người Việt Nam đang trong độ tuổi lao động. Thế hệ Y và thế hệ Z chiếm gần 1/3 lực lượng lao động trong nước, khoảng 65%. Việc sở hữu nguồn cung lao động trẻ và dồi dào, giữa lúc nhiều quốc gia đang phải đau đầu vì vấn đề già hóa dân số là một trong những lý do các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao thị trường Việt Nam.
Tuy nhiên, trình độ kỹ năng là điểm mà lao động Việt Nam cần khắc phục để vươn lên sánh ngang các thị trường khác. Mặc dù có tỷ lệ phổ cập giáo dục cao - khoảng 88%, số lao động Việt Nam có trình độ tay nghề hay chuyên môn cao chỉ chiếm khoảng 11,67%, gần như không đổi so với 3 năm trước.
Các kỹ năng mềm, trong đó có ngoại ngữ đang ngày càng đóng vai trò quan trọng ở hầu hết ngành nghề, ngay cả những lĩnh vực vốn thiên về kỹ thuật như ngành sản xuất. Tuy nhiên, theo báo cáo, tỷ lệ lao động Việt Nam đủ trình độ tiếng Anh để làm việc chỉ chiếm 5% lực lượng lao động. Tỷ lệ này khá thấp so với các quốc gia không nói tiếng Anh khác trong khu vực như Indonesia (10%), Malaysia (21%), Thái Lan (27%).
Bên cạnh đó, chi phí lao động hấp dẫn chưa hẳn thu hút nhà đầu tư nước ngoài. Theo báo cáo, mức thu nhập trung bình tháng của người lao động Việt Nam hiện là 275 USD (6.545.000 đồng), mức tương đối hấp dẫn và đem lại nhiều lợi ích cho người sử dụng lao động.
Nếu so sánh giữa hai thị trường: Việt Nam với chi phí rẻ nhưng trình độ kỹ năng lao động thấp hơn và Philippines - nơi mức lương trung bình tháng nhỉnh hơn một chút (283 USD) nhưng trình độ cao hơn hẳn (18,5% lao động tay nghề cao), lao động của Việt Nam vẫn kém hấp dẫn nhà đầu tư hơn.
Một chỉ số đáng lưu ý khác của lao động Việt Nam là tỷ lệ lao động phi chính thức chiếm đến 55% tổng lực lượng lao động. Lao động phi chính thức thường không có hợp đồng lao động, khả năng được bảo hiểm xã hội rất hạn chế. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2020 và 2021 đã chứng kiến tỷ lệ lao động phi chính thức tăng cao.
Việc chuyển đổi lao động phi chính thức sang chính thức để giúp họ đảm bảo an sinh việc làm, đồng thời khai thác hết tiềm năng của nhóm lao động này sẽ là một thách thức lớn đối với Chính phủ. Mặc dù vậy, thị trường Việt Nam vẫn có ưu điểm lớn là quy định về sử dụng lao động tương đối cởi mở, với nhiều chính sách mở cửa. Việt Nam cho phép doanh nghiệp được ký hợp đồng lao động với thời hạn tối đa là 36 tháng, đồng thời doanh nghiệp hoàn toàn có thể ký kết hợp tác và sử dụng nhà thầu phụ.
Chính phủ Việt Nam đang ngày càng tạo điều kiện cho các hoạt động giao thương quốc tế, thông qua việc đẩy mạnh các chính sách mở cửa. Hiện nay Việt Nam đang miễn thị thực khi nhập cảnh cho 63 quốc gia, tăng thêm 15 nước so với năm 2021. Chính sách này tạo điều kiện lớn cho các doanh nghiệp nước ngoài có dự định hoạt động tại Việt Nam, cũng như những công ty trong nước muốn mời chuyên gia ngoại quốc về làm việc.