Toàn cảnh

TP.HCM chuyển đổi xanh trong kỷ nguyên số: Sản xuất thông minh - Rào cản và chính sách (Bài 1)

PGS-TS. Lê Hoài Quốc (*) 28/11/2025 - 07:49

LTS: Trong bối cảnh các tiêu chuẩn carbon toàn cầu ngày càng siết chặt và công nghệ số ngày càng phát triển, TP.HCM cũng xác định việc chuyển đổi xanh gắn liền với số hóa là chiến lược không thể chậm trễ, phải toàn diện hơn, bài bản và hiệu quả hơn. Chuyên đề gồm 4 bài viết sẽ làm rõ các nền tảng để TP.HCM chuyển đổi xanh - số, củng cố vị thế trung tâm công nghiệp - công nghệ cao của Việt Nam trong thập niên tới.

Bài 1: Sản xuất thông minh - Rào cản và chính sách

Từ giai đoạn 2025-2030, chuyển đổi công nghiệp không chỉ là số hóa mà còn xanh hóa. Sản xuất thông minh với IoT, AI, dữ liệu thời gian thực, tự động hóa và quản trị năng lượng… chỉ thực sự có giá trị khi đi cùng mục tiêu giảm phát thải và sử dụng tài nguyên hiệu quả.

Sản xuất thông minh: Còn không ít rào cản

TP.HCM hiện sở hữu hệ sinh thái công nghiệp - công nghệ khá hoàn chỉnh, từ Khu Công nghệ cao đến các khu công nghiệp, khu chế xuất và mạng lưới trường đại học kỹ thuật, viện nghiên cứu, doanh nghiệp năng động. Quy hoạch không gian kinh tế mới cũng đang tạo ra những cực tăng trưởng với các khu công nghiệp đổi mới sáng tạo, nơi có hạ tầng thuận lợi để tiếp nhận công nghệ sản xuất tiên tiến.

Lợi thế của TP.HCM nằm ở chỗ phần lớn doanh nghiệp các ngành điện - điện tử, chế biến thực phẩm, cơ khí, bao bì hay logistics đã quen với mức độ tự động hóa nhất định và chỉ cần bổ sung hạ tầng số, IoT, AI hoặc hệ thống quản trị năng lượng để tiến tới mô hình nhà máy thông minh. Cách tiếp cận “nhảy cóc” này giúp doanh nghiệp rút ngắn đáng kể thời gian và chi phí so với lộ trình nâng cấp truyền thống.

Tuy vậy, các cơ chế như CBAM của EU, tiêu chuẩn EUDR, yêu cầu báo cáo ESG hay truy xuất dữ liệu sản xuất từ Mỹ và Nhật Bản đang buộc doanh nghiệp phải chuyển đổi nếu muốn giữ vị trí trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Sản xuất thông minh vì thế không chỉ là hướng nâng năng suất, mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc cho sự tồn tại và cạnh tranh.

Song, để triển khai sản xuất thông minh tại TP.HCM vẫn đối mặt với không ít rào cản, đặc biệt với nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Chi phí đầu tư cho cảm biến IoT, hệ thống đo năng lượng, nền tảng điều khiển trung tâm hay các giải pháp AI dự báo hiệu suất vẫn là gánh nặng đáng kể. Nnhiều doanh nghiệp SME cho rằng họ đang thiếu định hướng, lo ngại rủi ro và chưa biết bắt đầu từ đâu.

Sản xuất thông minh đòi hỏi kỹ sư phải am hiểu đồng thời cơ điện, tự động hóa và phân tích dữ liệu, trong khi phần lớn lực lượng nhân sự vẫn thiên về kỹ năng truyền thống. Điều này khiến doanh nghiệp gặp khó khi vận hành hệ thống mới, thậm chí phải thuê chuyên gia nước ngoài với chi phí cao. Bên cạnh đó, hạ tầng kỹ thuật tại nhiều khu công nghiệp vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, từ kết nối Internet không ổn định đến việc thiếu chuẩn giao tiếp chung khiến dữ liệu phân tán và khó khai thác theo thời gian thực.

Từ góc độ chính sách, thủ tục đầu tư đổi mới thiết bị còn phức tạp, ưu đãi thuế chưa đủ hấp dẫn và các chương trình hỗ trợ đổi mới công nghệ vẫn ở quy mô nhỏ. Đáng chú ý, Việt Nam vẫn thiếu một bộ tiêu chí hoàn chỉnh về “nhà máy thông minh”, khiến doanh nghiệp khó tự đánh giá mức độ sẵn sàng và xây dựng lộ trình chuyển đổi phù hợp.

Tại châu Âu và Mỹ, nhiều tập đoàn đã xem “chỉ số carbon” như một chỉ số chất lượng của nhà cung cấp. Muốn duy trì thị trường, doanh nghiệp không chỉ cần tăng năng suất mà còn phải giảm phát thải. Để làm được điều đó, nhà máy thông minh cần ứng dụng IoT đo đếm năng lượng, hệ thống EMS để giám sát điện tiêu thụ theo từng dây chuyền, từng máy, thiết bị. Khi dữ liệu được thu thập liên tục, AI có thể đưa ra cảnh báo sớm về thiết bị hư hỏng, giúp giảm lãng phí năng lượng và vật tư. Thực tế, nhiều doanh nghiệp trong khu công nghệ cao cho biết, chỉ cần áp dụng hệ thống giám sát năng lượng đã giúp họ tiết kiệm từ 10% đến 25% điện năng mỗi năm, một con số đáng kể trong bối cảnh giá năng lượng tăng.

Không dừng lại ở đó, dữ liệu thời gian thực còn giúp doanh nghiệp quản lý tối ưu nguyên vật liệu. Khi dây chuyền hoạt động dựa trên dữ liệu chính xác, tỷ lệ phế phẩm giảm, chi phí tồn kho giảm và chu kỳ sản xuất được rút ngắn. Điều này không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn giảm phát thải gián tiếp từ vận chuyển, lưu kho và bảo trì.

Một yếu tố quan trọng khác là khả năng lập báo cáo carbon theo từng sản phẩm. Khi hệ thống dữ liệu năng lượng được kết nối với hệ thống sản xuất, doanh nghiệp có thể tạo báo cáo carbon tự động theo chuẩn ISO 14064 hoặc theo yêu cầu của CBAM. Đây là điểm then chốt giúp doanh nghiệp Việt Nam duy trì xuất khẩu sang EU sau năm 2026 - thời điểm mà nhiều tiêu chuẩn carbon bắt buộc có hiệu lực.

T12 Chuyển đổi công nghiệp không chỉ số hóa mà còn xanh hóa
Chuyển đổi công nghiệp không chỉ số hóa mà còn xanh hóa

Cần chính sách đồng bộ, tổng thể

Để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi, TP.HCM cần một bộ giải pháp chính sách tổng thể và đồng bộ. Trước hết, việc xây dựng cơ chế ưu đãi mạnh cho các doanh nghiệp đầu tư thiết bị tiết kiệm năng lượng, hệ thống IoT và các giải pháp tự động hóa thông minh là rất cần thiết. Kinh nghiệm của Hàn Quốc và Singapore cho thấy các chương trình hỗ trợ 50-70% chi phí đầu tư đã mang lại hiệu quả rất lớn, đặc biệt cho nhóm SME.

Song song đó, Thành phố cần sớm ban hành bộ tiêu chuẩn đánh giá “nhà máy thông minh” theo đặc thù Việt Nam. Bộ tiêu chuẩn này bao gồm các yếu tố về tự động hóa, kết nối dữ liệu, an toàn thông tin, quản trị năng lượng và năng lực báo cáo ESG. Khi có tiêu chí cụ thể, doanh nghiệp dễ dàng lập kế hoạch đầu tư và theo dõi tiến độ chuyển đổi.

Với đặc thù 95% doanh nghiệp là SME, Thành phố cũng cần có các chương trình hỗ trợ chuyển đổi thực tiễn hơn như mô hình “nhà máy mẫu”, chương trình tư vấn miễn phí hoặc trợ giá, cũng như các gói hỗ trợ triển khai hệ thống giám sát năng lượng và số hóa dữ liệu. Khi SME được tiếp cận mô hình thực tế, họ dễ dàng xác định công nghệ phù hợp với quy mô và điều kiện vốn của mình.

Bên cạnh đó, đào tạo nhân lực là yếu tố then chốt. Cần đặc biệt chú trọng sự liên kết giữa trường học, doanh nghiệp và hội nghề nghiệp để xây dựng các chương trình đào tạo kỹ sư dữ liệu công nghiệp, chuyên gia quản trị năng lượng, chuyên gia ESG và kỹ sư robot - tự động hóa để đáp ứng yêu cầu thị trường. Hạ tầng dữ liệu công nghiệp của Thành phố cũng cần được chú trọng. Việc xây dựng hệ thống dữ liệu dùng chung cho các khu công nghiệp, trung tâm giám sát hiệu suất và năng lượng ở cấp thành phố hay bản đồ năng lực tự động hóa của doanh nghiệp sẽ giúp chính quyền quản lý hiệu quả hơn và giúp doanh nghiệp dễ dàng tìm kiếm đối tác, chuyên gia và chuỗi cung ứng phù hợp.

Kinh nghiệm từ các doanh nghiệp FDI cho thấy, mô hình chuyển đổi theo từng giai đoạn từ thu thập dữ liệu, kết nối hệ thống, tự động hóa đến ứng dụng AI… là hướng đi phù hợp, tiết kiệm chi phí và dễ đánh giá hiệu quả. Đặc biệt là khâu chuẩn hóa dữ liệu ngay từ đầu. Dữ liệu rời rạc là lý do khiến nhiều dự án IoT thất bại. Khi dữ liệu được chuẩn hóa theo dây chuyền, theo máy móc, doanh nghiệp dễ dàng triển khai phân tích năng lượng, đánh giá hiệu suất và xây dựng mô hình dự báo bằng AI.

Ngoài ra, doanh nghiệp cần tích hợp ESG vào chiến lược sản xuất thông minh ngay từ đầu để tiết kiệm chi phí tuân thủ và nâng cao cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế. Điều này bao gồm số hóa dữ liệu môi trường, tự động hóa báo cáo ESG và thực hiện quản trị năng lượng theo chuẩn quốc tế.

Chuyển đổi số mà thiếu “xanh” sẽ không bền vững. Xanh hóa mà thiếu “số” sẽ không đủ lực để đi đường dài. Chỉ khi doanh nghiệp kết hợp cả hai yếu tố, ngành công nghiệp TP.HCM mới có thể bước vào kỷ nguyên sản xuất thông minh thực sự.

(*) Chủ tịch Hội Tự động hóa TP.HCM (HAuA)

Nổi bật
Đọc nhiều
TP.HCM chuyển đổi xanh trong kỷ nguyên số: Sản xuất thông minh - Rào cản và chính sách (Bài 1)
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO