Kỳ tích Hàn Quốc
Hàn Quốc trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Năm 1910, Hàn Quốc bị Nhật Bản đô hộ, đánh dấu sự khởi đầu của một trong những thời kỳ đen tối nhất mà Hàn Quốc từng trải qua. Hàn Quốc đã quyết liệt chiến đấu chống lại sự cai trị của Nhật Bản và giành lại độc lập vào năm 1945 khi Thế chiến II kết thúc. Tuy nhiên, Chiến tranh lạnh ngay lập tức bắt đầu và Triều Tiên bị chia thành hai miền Bắc và Nam. Ở nửa phía Nam của bán đảo, Đại Hàn dân quốc được thành lập vào năm 1948 dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc.
Niềm vui về một khởi đầu mới của Hàn Quốc không kéo dài được lâu. Chỉ hai năm sau, năm 1950, chiến tranh Triều Tiên nổ ra. Trong ba năm chiến tranh tàn khốc, hơn 4 triệu người chết hoặc bị thương. Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế bị tàn phá nặng nề. Seoul gần như bị thiêu rụi hoàn toàn, trẻ mồ côi và người tị nạn lang thang khắp các thành phố và vùng nông thôn để tìm kiếm những người thân yêu đã mất của họ. Suy dinh dưỡng và bệnh tật ở khắp mọi nơi. Tôi vẫn còn nhớ những thời kỳ khó khăn cả trong và sau chiến tranh.
Vào cuối những năm 1950, GDP bình quân đầu người của Hàn Quốc xếp thứ 101 trong số 125 quốc gia. Năm 1962, GDP bình quân đầu người của Hàn Quốc chưa đến 100 USD. Hơn 40% dân số cả nước phải chịu cảnh nghèo đói và dường như không có lối thoát. Nhưng hiện nay Hàn Quốc là một trong 7 quốc gia trên thế giới có dân số lớn hơn 50 triệu người, đồng thời GDP bình quân đầu người cao hơn 30.000 USD. 6 quốc gia còn lại là Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp và Ý. Hàn Quốc là quốc gia đầu tiên và duy nhất chuyển từ một quốc gia nhận viện trợ nước ngoài sang một quốc gia tài trợ trong lịch sử thế giới. Một số người gọi thành tích này là "kỳ tích Hàn Quốc".
Hàn Quốc đã làm điều đó như thế nào?
Nhiều học giả đã đặt câu hỏi và phân tích sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc để tìm kiếm câu trả lời. Không thể có một câu trả lời đúng cho câu hỏi này, nhưng có một yếu tố nằm bên dưới tất cả yếu tố khác: giáo dục.
Hàn Quốc không được ưu đãi nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, chỉ có nguồn cung cấp than, sắt, vonfram, đá vôi và cao lanh hạn chế, trong khi các nguồn tài nguyên khác khan hiếm hoặc không có. Đất canh tác chỉ chiếm 20% tổng diện tích đất; khí hậu, thổ nhưỡng, lượng mưa, nhiệt độ đều không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Việc tập trung vào giáo dục và đầu tư vào nguồn nhân lực là rất quan trọng. Không có tài nguyên thiên nhiên hoặc vốn tích lũy đáng kể, Hàn Quốc phải dựa vào lực lượng lao động có trình độ học vấn cao để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và người dân Hàn Quốc có niềm đam mê lớn đối với giáo dục.
Trên thực tế, niềm đam mê giáo dục đã có từ lâu đời ở Hàn Quốc. Có lẽ một giai thoại nổi tiếng sẽ giúp bạn hiểu được thái độ của người dân Hàn Quốc đối với giáo dục. Nó liên quan đến một học giả thế kỷ XVI, Seokbong Han - người được công nhận là một trong những nhà thư pháp hàng đầu trong lịch sử Hàn Quốc. Tôi sẽ gọi anh ấy là Han.
Mẹ của Han, dù muốn giữ con trai bên mình, đã gửi anh đến một ngôi chùa Phật giáo trên núi để anh có thể tập trung vào việc học, tránh xa những phiền nhiễu. Vài năm sau, vẫn còn non nớt và thiếu động lực, một ngày nọ, Han trở về nhà và nói với mẹ rằng anh không còn muốn theo đuổi thư pháp nữa. Mặc dù rất vui mừng được gặp lại con trai mình, nhưng bà vẫn quyết tâm giúp cậu hoàn thành việc học.
Mẹ anh, người đang nuôi Han bằng cách bán bánh gạo ở chợ, đã đề xuất một cuộc thi. Nến sẽ tắt và nếu Han có thể viết thư pháp tốt hơn bà ấy cắt bánh gạo trong bóng tối hoàn toàn, thì anh ấy có thể làm bất cứ điều gì anh ấy muốn. Khi họ thắp nến trở lại, bức thư pháp của Han trông thật xấu xí trong khi từng miếng bánh gạo do mẹ anh cắt ra có hình dạng và kích cỡ hoàn hảo. Nhận ra rằng việc học tập và thực hành của mình vẫn chưa hoàn thành, Han đã khiêm tốn và quay trở lại ngôi đền, quyết tâm không bao giờ trở về nhà cho đến khi anh có thể trở thành nhà thư pháp giỏi nhất ở Joseon.
Bạn có thể tưởng tượng mình ở vị trí của Han? Đầu tiên, mẹ bạn gửi bạn đến một ngôi đền hẻo lánh trên núi. Khi bạn trở về, bà ấy mắng bạn là chưa trưởng thành và gửi bạn trở lại cho đến khi bạn đạt đủ tiến bộ trong học tập. Đây là cách người Hàn Quốc coi trọng giáo dục. Truyền thống vẫn thúc đẩy người dân Hàn Quốc học tập nhiều hơn và làm việc chăm chỉ hơn.
Tôi sinh ra ở nông thôn, những năm học tiểu học, gia đình không đủ tiền mua bữa trưa cho tôi. Mẹ tôi làm công việc giặt quần áo ở bệnh viện để nuôi anh chị em tôi trong những năm khó khăn sau chiến tranh. Mẹ không ngừng nhắc nhở tôi về niềm tin rằng một tương lai tươi sáng đang chờ đợi tôi ở phía trước nên cái nghèo sẽ không làm tôi nản lòng. Tôi làm gia sư tại nhà từ cấp 3 cho đến đại học để kiếm tiền trang trải học phí, nhưng tôi chưa bao giờ lơ là việc học hành của mình.
Ngoài mẹ tôi, tôi còn có những người khác đã truyền cho tôi sự tự tin trong suốt tuổi trẻ của mình. Tất cả họ đều có một niềm đam mê cho giáo dục. Nếu không có sự thuyết phục của những người ủng hộ và các giáo sư, con đường học vấn của tôi từ vùng quê lên Seoul đến Hoa Kỳ và bản thân tôi ngày hôm nay sẽ không thể thực hiện được.
Thật vậy, giáo dục và phát triển kinh tế của một quốc gia đi đôi với nhau. Một mối quan hệ cộng sinh giữa một quốc gia và các tổ chức giáo dục của quốc gia đó vì họ chịu trách nhiệm sản xuất vốn trí tuệ của quốc gia, từ đó thấm nhuần phương pháp phù hợp để quản trị tốt, ổn định kinh tế và phúc lợi xã hội. Hàn Quốc đã có thể đạt được những bước tiến có ý nghĩa vì nền giáo dục của Hàn Quốc đã phổ biến khoa học và công nghệ tiên tiến một cách hiệu quả.
Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, tri thức, các trường học Hàn Quốc cung cấp kiến thức từ nước ngoài và chính phủ đưa nhiều sinh viên đến trường hơn. Sau đó, các sinh viên tốt nghiệp đã sử dụng kiến thức mà họ học được để phát triển Hàn Quốc với tốc độ chưa từng thấy. Kết quả là Hàn Quốc tăng trưởng nhanh mặc dù thiếu vốn và tài nguyên.
Làm thế nào để duy trì năng lượng?
Khi nền kinh tế phát triển, một quốc gia phải chuẩn bị để chuyển mục tiêu giáo dục từ chuyển giao kiến thức sang tạo ra kiến thức. Khi tiến hành R&D, chữ R phải có nghĩa là nghiên cứu thực sự, không phải là sàng lọc những gì người khác đã làm. Winston Churchill đã từng nói: "Cải thiện là thay đổi; trở nên hoàn hảo là phải thay đổi thường xuyên". Khi nền kinh tế của một quốc gia phát triển, nó phải được chuẩn bị để thích nghi và chuyển trọng tâm sang việc tạo ra và đóng góp tri thức cho phần còn lại của thế giới. Những nỗ lực như vậy sẽ sớm đưa các thế hệ trẻ tiếp xúc với những thách thức mới để họ được trang bị sự tự tin và tính linh hoạt, điều này sẽ giúp họ vượt qua hiệu quả trong tình hình địa chính trị đang thay đổi nhanh chóng ngày nay.
Cuối cùng, cạnh tranh công bằng là một điều kiện tiên quyết cho một nền kinh tế bền vững. Sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc trong những năm hình thành đã sử dụng một lý thuyết về tăng trưởng không cân bằng. Nghĩa là, chính phủ Hàn Quốc đã phân bổ nguồn lực cho các ngành có tiềm năng cao nhất thay vì phân bổ nguồn lực cho tất cả các ngành. Chiến lược này đã thành công trong việc phát triển nền kinh tế nhưng phải trả giá bằng sự bình đẳng kinh tế. Nói cách khác, ngày nay các tập đoàn được hưởng lợi từ các chính sách của chính phủ đã trở thành các tập đoàn toàn cầu, nhưng ảnh hưởng kinh tế của họ đang làm lu mờ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hệ số Gini ở Hàn Quốc đang tăng nhanh và sự giàu có đang bị phân cực khi người giàu ngày càng giàu hơn và người nghèo ngày càng nghèo hơn. Và tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao như trước đây.
Một danh sách các giải pháp sẽ bao gồm: người dân được học tập tốt, nhiều kỹ sư, nhà thiết kế và các chuyên gia khác, nguồn tri thức khổng lồ, vốn đầy đủ, giáo dục công mạnh mẽ, thể chế kinh tế hiệu quả và hệ thống pháp lý phù hợp để thúc đẩy tinh thần kinh doanh... Nhưng tôi muốn nhấn mạnh giải pháp tăng trưởng chia sẻ. Tôi đề xuất Việt Nam nên ghi nhớ, tăng trưởng chia sẻ vì thứ nhất, vòng lẩn quẩn "giàu càng giàu, nghèo càng nghèo" cực kỳ khó phá vỡ sau khi nền kinh tế đất nước phát triển. Thứ hai, tăng trưởng chia sẻ sẽ giúp Việt Nam tìm ra một mô hình bền vững hơn cho tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng chia sẻ là một triết lý thúc đẩy cùng nhau phát triển kinh tế. Nhiều học giả trong các lĩnh vực khác nhau có thể gọi nó bằng một cái tên hơi khác. Ví dụ, OECD sử dụng thuật ngữ nền kinh tế bao trùm, có chung ý tưởng với tăng trưởng chia sẻ. Điều quan trọng hơn những gì chúng ta gọi là "cùng nhau phát triển" thực sự có nghĩa là gì. Bằng cách cùng nhau phát triển, tăng trưởng chia sẻ nhằm mục đích thúc đẩy phân phối công bằng hơn mà không hạn chế tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.
Đôi khi mọi người hiểu sai tăng trưởng được chia sẻ như một cơ chế phân phối khác: lấy của người giàu và chia cho người nghèo. Tôi không đổ lỗi cho họ vì tăng trưởng và phân phối theo truyền thống nằm trong mối quan hệ "hoặc"; bạn có thể theo đuổi tăng trưởng hoặc phân phối trong kinh tế học. Nếu bạn muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phân phối phải lùi lại một bước. Tương tự như vậy, phân phối của cải có nghĩa là bạn đang từ bỏ tăng trưởng. Trái lại, đối với tăng trưởng chia sẻ, tăng trưởng kinh tế và phân phối của cải không ở hai cực đối lập của vấn đề. Tăng trưởng và phân phối có thể đạt được cùng một lúc bằng cách làm cho "chiếc bánh" kinh tế trở nên lớn hơn và phân phối thành quả của sự tăng trưởng một cách công bằng giữa những người đóng góp.
Giả sử rằng sản lượng kinh tế của Hàn Quốc trên GDP vào năm 2021 là 100 và 50% sản lượng đó thuộc về các tập đoàn lớn trong khi 50% còn lại thuộc về các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bây giờ, hãy tưởng tượng rằng nền kinh tế Hàn Quốc tăng trưởng 20% vào năm 2022, đưa GDP của Hàn Quốc lên 120. Nhưng lần này, hãy phân phối công bằng hơn: các tập đoàn lấy đi 45% trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhận được 55%. Cả hai bên đều được hưởng lợi từ sự tăng trưởng vì tài sản của các tập đoàn tăng từ 50 lên 54 trong khi tài sản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng từ 50 lên 66.
Nói cách khác, vấn đề thực sự của nền kinh tế Hàn Quốc là trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp nhiều hơn 50% công việc, họ nhận được ít hơn nhiều so với những gì họ xứng đáng được nhận. Khi chúng ta làm cho quá trình phân phối trở nên công bằng hơn và trả cho SME những gì họ thực sự xứng đáng, chúng ta có thể đạt được sự tăng trưởng và phân phối cùng một lúc.
Tóm lại, tăng trưởng chia sẻ là đảm bảo công bằng trong quá trình phân phối kết quả tăng trưởng. Thay vì theo đuổi tăng trưởng kinh tế vì mục tiêu tăng trưởng, tăng trưởng chia sẻ sẽ giúp Việt Nam tăng trưởng lành mạnh và bền vững hơn.
Khái niệm tăng trưởng chia sẻ hay tăng trưởng chung cũng có thể được mở rộng để xây dựng quan hệ hợp tác với các quốc gia khác. Trong thế giới kết nối cao ngày nay, một quốc gia không thể "làm điều đó một mình".
Từ bài học Hàn Quốc...
Việt Nam có thể làm khác đi để tăng trưởng một cách lành mạnh và bền vững hơn. Mỗi quốc gia là khác nhau. Dân số và đất đai của Việt Nam lớn hơn nhiều so với Hàn Quốc. Nhưng tôi tin rằng, việc nhấn mạnh vào giáo dục và tinh thần phấn đấu vươn lên là những yếu tố phổ quát sẽ giúp bất kỳ quốc gia nào tiến xa. Tôi tin chắc rằng, các kế hoạch chiến lược của Việt Nam có tính đến tăng trưởng chia sẻ sẽ giúp Việt Nam xây dựng mô hình tăng trưởng kinh tế của riêng mình và rằng các quốc gia khác trong tương lai sẽ đặt câu hỏi: "Việt Nam đã làm điều đó như thế nào?".
(*) Nguyên Thủ tướng Hàn Quốc