Ngành điện tử được xếp ở tốp đầu trong số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao của Việt Nam. Song, công nghệ lạc hậu cộng với sản xuất manh mún, thiếu “chuỗi cung” và quy hoạch chiến lược xa rời thực tế đang đẩy ngành công nghiệp điện tử Việt Nam vào ngõ cụt, chực chờ phá sản. Vì sao lại có nghịch lý này?
Tăng nhập khẩu
Ngành sản xuất linh kiện điện tử trong nước đang gặp nhiều khó khăn |
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử Việt Nam, từ năm 2007 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng điện tử của Việt Nam hàng năm tăng cao, tăng trưởng bình quân trên dưới 40%. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu điện tử năm nay đạt trên 4 tỷ USD.
Còn theo nghiên cứu mới nhất của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM), hiện cả nước có hơn 10.000 doanh nghiệp (DN) điện tử, kể cả DN thương mại.
Đáng chú ý, dù con số DN và xuất khẩu đạt khá cao, nhưng thực chất vai trò chủ đạo trong xuất khẩu hàng điện tử thuộc về DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chiếm hơn 90%, con số khiêm tốn còn lại của DN Việt Nam.
Điều này hết sức lo ngại cho ngành công nghiệp điện tử Việt Nam. Chưa kể, đa số DN điện tử nhập khẩu linh kiện, có DN nhập khẩu 100% linh kiện và nguyên vật liệu. Tỷ lệ nội địa hóa, nếu có, trong một sản phẩm điện tử như tivi, máy nghe nhạc… xuất khẩu chỉ là vỏ nhựa, thùng các tông và xốp.
Các mặt hàng điện tử xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu gồm máy in, linh kiện điện tử như bo mạch, RAM máy tính, linh phụ kiện máy in… Kim ngạch xuất khẩu tăng nhưng năng lực cạnh tranh lại rất thấp, giá trị gia tăng trong sản phẩm không vượt qua hai con số, thể hiện ở hoạt động gia công và lắp ráp.
Và dù kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng hàng năm cao, nhưng so với các nước trong khối ASEAN như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines... thì Việt Nam còn thua 20 đến 30 lần.
Một “điềm” xấu nữa cho ngành điện tử Việt Nam là những năm gần đây xuất hiện xu hướng nhiều DN sản xuất, lắp ráp hàng điện tử, kể cả DN FDI, thi nhau thu hẹp sản xuất, chuyển hướng sang nhập khẩu hàng nguyên chiếc để bán.
Đơn cử, tính từ thời điểm 2008, khi hãng Sony tuyên bố ngưng sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam, lần lượt đến JVC Việt Nam, Toshiba… cũng ngưng lắp ráp tivi LCD tại Việt Nam và chuyển sang nhập khẩu mặt hàng này hoàn toàn.
Các hãng điện tử khác cũng đang giảm dần sản xuất, lắp ráp để chuyển sang nhập khẩu, mà nhiều hãng điện tử nhập khẩu với lượng hàng gấp 3 - 4 lần so với lượng hàng sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam.
Ông Nguyễn Trung Hoàng, Giám đốc Công ty TNHH TM DV Điện tử Quang Hoàng (quận Tân Bình, TPHCM), chuyên nhập khẩu hàng điện tử cho biết, việc nhập khẩu ồ ạt hàng điện tử thời gian qua là do thuế quan ngành này đã lùi về thấp ở mức 5%.
Sắp tới, khi mức thuế của các mặt hàng khu vực khác cũng sẽ có mức thuế giảm mạnh thì hàng sản xuất trong nước ngày càng khó cạnh tranh. Đây là lý do khiến các hãng điện tử tại Việt Nam đang rút dần khỏi lĩnh vực sản xuất, lắp ráp để chuyển sang nhập khẩu, phân phối.
Chiến lược thiếu thực tế
Tổng Giám đốc Công ty CP Điện tử Tân Bình (VTB) Ngô Văn Vị cho rằng, dù quy hoạch định hướng, chiến lược của ngành điện tử đã có mấy năm qua, song còn chung chung, thiếu thực tế.
Trong đó, dù Chính phủ xếp công nghiệp điện tử là một trong những ngành mũi nhọn nhưng không có chính sách đầu tư cụ thể. Ngay cả việc xúc tiến thương mại, kêu gọi các nhà đầu tư cho lĩnh vực phụ trợ ngành điện tử cũng không thực hiện được.
Tâm tư của ông Vị dù chưa khẳng định đến thời điểm này ngành công nghiệp điện tử đã phá sản, nhưng cũng cho thấy sau hàng chục năm “quy hoạch”, bóng dáng hình hài ngành công nghiệp điện tử với thương hiệu Việt Nam vẫn bặt tăm. Trong khi đó, thực tế các DN đang ồ ạt chuyển đổi mô hình từ sản xuất sang nhập khẩu, lắp ráp cho thấy ngành công nghiệp điện tử đứng trước nguy cơ “xóa sổ” khá rõ nét.
Theo TS Nguyễn Minh Đức, giảng viên Khoa Kinh tế Đại học Quốc gia TP.HCM, hệ thống công nghệ lỗi thời, không phù hợp với sự phát triển của thế giới là nguyên nhân chính của sự phá sản. Bởi quá trình sản xuất các thiết bị điện tử hay các sản phẩm cơ khí phức tạp là một quá trình phân công quốc tế tinh vi. Không một công ty nào sản xuất bất cứ thứ gì từ A tới Z.
Các tổ chức tập hợp với nhau thành một mạng lưới, từ thiết kế, sản xuất các bộ phận, các bán thành phẩm, đến lắp ráp, phân phối, bảo hành… để tạo thành “chuỗi cung”. Mỗi tổ chức là một mắt xích trong chuỗi cung đó và tạo ra giá trị gia tăng riêng của mình.
Toàn bộ quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại đều xảy ra như vậy từ nhiều chục năm nay. Như thế, các công ty len lỏi được vào mắt xích đó thường được chuyên môn hóa rất cao, sản xuất một nhóm sản phẩm phục vụ cho các nhà cung cấp khác trong mắt xích khác của các chuỗi cung khác nhau. Sự hợp tác và phân công lao động quốc tế ở quy mô cao.
Thị trường của các công ty như vậy phải là thị trường toàn cầu hay khu vực chứ không chỉ nhắm vào thị trường nội địa. Chính vì vậy, tư duy mong muốn có ngành điện tử mạnh, sản xuất từ linh kiện thụ động (điện trở, tụ, mạch in) đến các linh kiện bán dẫn, thiết kế chế tạo các thiết bị điện tử hoàn chỉnh mà các nhà hoạch định chính sách đưa ra trong quy hoạch phát triển công nghiệp điện tử Việt Nam thời gian qua là bất khả thi.
“Hiện nay hàng nhập khẩu ồ ạt vào thị trường Việt Nam, chiến lược xây dựng ngành công nghiệp điện tử đứng trước nguy cơ phá sản. Nếu tình trạng này không nhanh chóng khắc phục, không có chính sách phù hợp kịp thời, nguy cơ phá sản ngành công nghiệp điện tử, vốn đã quá yếu kém, là điều khó tránh khỏi” - TS Nguyễn Minh Đức dự báo.