Multimedia

GDP 8,5%: Cú hích để kinh tế Việt Nam bứt phá

Lữ Ý Nhi - Hưng Khánh 24/07/2025 - 14:07

Tăng trưởng GDP năm 2025 phải đạt từ 8,3-8,5%, thay vì 8% không chỉ là một mục tiêu kinh tế đơn thuần mà là một quyết tâm chính trị, một cú hích chiến lược để kinh tế Việt Nam bứt phá, bước vào giai đoạn 2026-2030 với tâm thế mới.

cover new

Tăng trưởng GDP năm 2025 phải đạt từ 8,3 - 8,5%, thay vì 8% không chỉ là một mục tiêu kinh tế đơn thuần mà là một quyết tâm chính trị, một cú hích chiến lược để kinh tế Việt Nam bứt phá, bước vào giai đoạn 2026 - 2030 với tâm thế mới.

Làm thế nào để đạt mục tiêu khi nền kinh tế thế giới còn bất định, niềm tin kinh tế phục hồi đang suy giảm… là vấn đề được các chuyên gia kinh tế và doanh nhân thảo luận sôi nổi tại tọa đàm trực tuyến “Dự báo kinh tế 6 tháng cuối năm 2025 - Cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp” do Tạp chí Doanh Nhân Sài Gòn và Viện Sáng kiến Việt Nam đồng tổ chức.

1(1).jpg
Tăng trưởng GDP đạt con số ấn tượng 7,52% trong 6 tháng đầu năm (mức tăng cao nhất trong 15 năm qua) tạo đà để Chính phủ tiếp tục đưa ra mục tiêu tăng trưởng 8,3 - 8,5% đến hết năm 2025.

Bốn động lực

Theo ông Nguyễn Xuân Thành - Giảng viên Trường Chính sách Công & Quản lý Fulbright, có được kết quả tích cực trong 6 tháng đầu năm đến từ bốn động lực lớn. Đứng thứ nhất và mạnh nhất là xuất khẩu. Mặc dù 6 tháng đầu năm 2025 nền kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng của căng thẳng thuế quan giữa Hoa Kỳ với các nước đối tác, nhưng xuất khẩu của Việt Nam lại tăng trưởng mạnh lên đến 14,5%.

Động lực thứ hai là đầu tư công và chi ngân sách của Nhà nước 6 tháng đầu năm khả quan, thu ngân sách tăng 28% nhưng chi ngân sách tăng đến 59%. Đặc biệt là giải ngân đầu tư công khởi sắc đáng kể với con số tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt gần 12 tỷ USD, cùng đó là các gói chi hỗ trợ cho việc giải quyết vấn đề tinh giản bộ máy (cả chi thường xuyên lẫn chi đầu tư).

Động lực thứ ba là giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với gần 12 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm, tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái bất chấp những lo ngại sau khi Mỹ công bố chính sách thuế đối ứng lên đến 46% vào tháng 4/2025. Đây là bằng chứng cho thấy Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn của dòng vốn đầu tư FDI, đặc biệt là niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài đối với thị trường Việt Nam. Điều này không chỉ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế 6 tháng cuối năm mà còn trong các năm tới.

Động lực cuối cùng là tín dụng tăng. Đến cuối tháng 6/2025, tín dụng so với đầu năm tăng đến 9,9%. Còn so với cùng kỳ 12 tháng tăng 9,3%. Trước nhiều lo lắng liệu tín dụng tăng có diễn ra kịch bản như năm 2018 - là năm cũng có tăng trưởng khá cao nhưng trước tín hiệu tín dụng tăng quá nóng thì đến năm sau 2019, Nhà nước đã phải có những điều hành để giảm tăng trưởng. Ông Thành cho hay, tín dụng năm nay sẽ không rơi vào kịch bản của 2019 vì áp lực vẫn phải đặt mục tiêu tăng trưởng cao trong 6 tháng cuối năm nên vẫn sẽ phải duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng rất cao. Có thể thấy là 2/3 tốc độ tăng trưởng tín dụng này là thực tế, còn 1/3 mang tính chất phục vụ cho tái cơ cấu, “nuôi” các doanh nghiệp (DN) khó khăn, đặc biệt là khu vực bất động sản chứ không phục vụ hết cho mở rộng sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng cao nhưng cung tiền cũng dần bắt kịp với tăng trưởng tín dụng. 6 tháng đầu năm, cung tiền cũng tăng đến 7,5%.

656541.jpg

Kinh tế thế giới bất định, Việt Nam vẫn có cơ hội

TS. Võ Trí Thành - Nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng: “Hiện thế giới đang trong trạng thái bất định kéo dài với nhiều yếu tố bất ổn, khó lường nhưng khác với các đợt khủng hoảng trước, lần này vẫn nổi lên những cơ hội mới, gắn liền với quá trình tái cấu trúc kinh tế toàn cầu, trong đó có kinh tế Việt Nam”.

Chúng ta đã nhiều lần nhắc đến các xu hướng như chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, dân số dịch chuyển và gia tăng tầng lớp trung lưu, đặc biệt là tại Đông Á. Trong bối cảnh đó, một điểm rất đáng chú ý là nơi đây - vốn là một mạng lưới sản xuất và trao đổi linh kiện, với khoảng 40 - 50% hàng hóa là đầu vào sản xuất đang từng bước chuyển dịch trở thành một thị trường tiêu dùng cuối cùng lớn nhất thế giới trong vòng 5 - 7 năm tới.

Việt Nam hiện đang nhập nhiều linh kiện từ Trung Quốc, Hàn Quốc và các nước Đông Á khác để gia công rồi xuất sang Mỹ và châu Âu. Nhưng trong tương lai gần, các nền kinh tế Đông Á với sự gia tăng của tầng lớp trung lưu sẽ trở thành thị trường tiêu thụ thực sự, không chỉ là trung tâm sản xuất. Đây là sự thay đổi mang tính chiến lược mà chúng ta cần nắm bắt.

Ở góc nhìn kinh tế thế giới, GS. Trần Ngọc Anh - Đại học Indiana, Hoa Kỳ hình dung nền kinh tế toàn cầu như một đoàn thuyền, trong đó có thuyền lớn, thuyền nhỏ và hiện tại, đoàn thuyền ấy đang phải đối mặt với hai cơn sóng lớn là lạm phát kéo dài tại nhiều quốc gia, chưa có dấu hiệu chấm dứt do nhiều nguyên nhân, trong đó đáng kể là những xung đột địa chính trị khiến giá dầu tăng cao. Thứ hai là những căng thẳng địa chính trị đang diễn ra gay gắt, đặc biệt là chính sách thuế và cạnh tranh giữa các cường quốc, mà tiêu biểu là Mỹ.

Xét trên tổng thể các “con tàu kinh tế” thì nước Mỹ - nền kinh tế lớn nhất thế giới đang giữ được sự ổn định và vững vàng nhất. Trong 6 tháng đầu năm, mặc dù từng có những dự báo tiêu cực, song nhu cầu tiêu dùng nội địa của Mỹ vẫn rất mạnh mẽ. Đặc biệt, thị trường lao động duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức gần kỷ lục, chỉ khoảng 4% trong tháng 5, thậm chí có thời điểm xuống còn 3,8%. Con số này cho thấy, Mỹ sẽ tiếp tục là thị trường quan trọng và cơ hội mở ra cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.

Điểm sáng trong bức tranh phát triển doanh nghiệp 6 tháng đầu năm 2025
14.390:
Là số DN quay trở lại hoạt động trong 6 tháng đầu năm 2025, tăng 91,05% so với cùng kỳ 2024.
Trên 152.000:
Là tổng số DN gia nhập và tái gia nhập thị trường trong 6 tháng đầu năm. Điều này cho thấy chính sách hỗ trợ kinh tế tư nhân đang phát huy hiệu quả, niềm tin của cộng đồng DN vào triển vọng phục hồi và phát triển đang được củng cố.
1,9 triệu tỷ đồng:
Là số vốn tăng thêm của DN đang hoạt động, tương đương 72 -73 tỷ USD, cho thấy DN đã tìm thấy cơ hội tăng trưởng thị trường.
Trên 127.000:
Là số DN rút lui khỏi thị trường (Nhưng đa số là các DN có quy mô nhỏ với mức vốn chỉ khoảng 9 tỷ đồng). 63,5% DN trong số này chọn phương án tạm ngừng kinh doanh có thời hạn.

2.jpg
Ví con số tăng trưởng GDP 7,52% chỉ là một mặt của đồng xu, ông Nguyễn Xuân Thành - Giảng viên Trường Chính sách Công & Quản lý Fulbright cho hay, nếu nhìn vào mặt còn lại thì bức tranh kinh tế nội địa không khả quan và ẩn nhiều thách thức…

Kinh tế nội địa khó khăn, thế giới tăng trưởng chậm

Báo cáo tại phiên họp Chính phủ mới đây, Bộ Công Thương cho biết, tổng cả sản xuất điện lẫn điện nhập khẩu trong 6 tháng đầu năm của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) chỉ tăng 3,03% nhưng lại đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất. Theo ông Thành, đây là điều cần xem xét khi kinh tế tăng trưởng 7,52%. Những năm trước, tăng trưởng điện thường phải cao hơn 1,1 - 1,2 lần, điều đó cho thấy tình hình sản xuất, đặc biệt là sản xuất công nghiệp, chế biến chế tạo trong nước chưa khả quan.

Ở góc độ thị trường, ông Thành phân tích, con số giá trị gia tăng của ngành thương mại (loại bỏ lạm phát) tăng 7%, tiêu dùng dân cư tăng gần 8% thoạt nhìn có vẻ ổn nhưng nếu nhìn vào báo cáo tài chính của các DN sản xuất, hàng tiêu dùng, DN thương mại thì chỉ có một số ít DN lớn như Thế Giới Di Động, Masan Consumer có tốc độ tăng trưởng hai con số. Còn lại, kể cả Công ty Xăng dầu Petrolimex, Vinafood, các DN sản xuất lương thực, thực phẩm, thương mại cũng tăng trưởng âm, hoặc có loại bỏ lạm phát thì vẫn không có tăng trưởng. Điều đó nói lên nền kinh tế nội địa đang rất khó khăn, sức mua yếu, người tiêu dùng còn rất thận trọng trong chi tiêu dùng.

Về xuất khẩu, ông Thành phân tích, dù tăng 14,5% trong 6 tháng đầu năm, xuất khẩu sang Hoa Kỳ 8% nhưng chủ yếu là do các nhà nhập khẩu muốn “chốt” đơn để “né” thuế áp mới khi các mặt hàng điện tử Việt Nam đang được áp thuế 0%, còn các mặt hàng khác chỉ bị áp thêm 10%. Ông Thành dự báo, thách thức tăng trưởng xuất khẩu 6 tháng cuối năm sẽ giảm tốc đáng kể.

Một thách thức khác theo ông Thành là kinh tế thế giới trong những năm gần đây vẫn chưa đạt mức tăng trưởng 3,5%/năm. (Theo dự báo đầu năm nay, kỳ vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu ở mức 3,3% nhưng đến tháng 4, con số này đã bị điều chỉnh giảm xuống còn khoảng 2,8%). Một phần nguyên nhân là do tăng trưởng chậm lại tại các nền kinh tế lớn, trong đó có Mỹ và Trung Quốc - hai đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam.

Tiếp theo từ tháng 8 tới đây, việc Mỹ chuẩn bị áp dụng chính sách thuế quan mới sẽ tiếp tục tạo áp lực lên tăng trưởng toàn cầu. Dù mức thuế chính thức có thể không cao như đề xuất ban đầu vào tháng 4 nhưng chắc chắn cũng sẽ ảnh hưởng đến tâm lý thị trường, thương mại và đặc biệt là niềm tin tiêu dùng vốn đang rất mong manh.

Đánh giá những tác động của kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến hoạt động của DN Việt Nam, TS. Võ Trí Thành cũng nhấn mạnh: “Chưa bao giờ địa chính trị, công nghệ và kinh tế (đằng sau là thương mại, đầu tư, dịch vụ) lại nhằng nhịt quan hệ phức tạp và khó đoán định như hiện nay. Chính sách thuế của Hoa Kỳ càng làm tăng tính bất định của nền kinh tế và đẩy quá trình phân mảnh trên thế giới trở nên mạnh mẽ hơn”.

CĐ BÀI 2

Việt Nam hết hưởng “lợi kép” từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung

TS. Võ Trí Thành phân tích thêm, so với giai đoạn 2018 - 2019, cuộc chiến thương mại trong thời gian gần đây phức tạp hơn rất nhiều. Trước đây, khi cuộc chiến Mỹ -Trung căng thẳng, Việt Nam từng được hưởng lợi vì dòng vốn và sản xuất dịch chuyển theo mô hình “Trung Quốc +1”. Khi đó, Việt Nam là điểm đến hấp dẫn nhờ ổn định chính trị và chi phí hợp lý.

Nhưng lần này, cuộc chiến không chỉ là giữa Mỹ và Trung Quốc, mà mở rộng gần như toàn cầu. Chính sách thuế không chỉ nhắm đến sản phẩm của một quốc gia, mà còn xét đến chuỗi cung ứng, xuất xứ hàng hóa và DN nằm trong chuỗi cung ứng có mang “màu cờ” của quốc gia khác hay không.

Thêm vào đó, các chuỗi giá trị chiến lược như công nghệ cao, thiết bị y tế, năng lượng sạch cũng đang được giám sát chặt chẽ hơn. Điều này khiến DN Việt Nam, dù không phải là đối tượng trực tiếp vẫn có thể bị ảnh hưởng gián tiếp nếu sản phẩm mang yếu tố đầu vào từ Trung Quốc hoặc nằm trong chuỗi cung ứng liên quan.

Hiện tại, theo dự báo mô hình CGE (Computable General Equilibrium), với kịch bản mức thuế quan mà Mỹ có thể áp dụng với hàng hóa từ Việt Nam được ước tính ở mức khoảng 15 - 20%. Mức này được đánh giá là thấp hơn tương đối so với các mức thuế mà Mỹ từng áp lên Trung Quốc trong giai đoạn căng thẳng thương mại cao điểm (từ 25% trở lên). Dù vậy, điều quan trọng là Việt Nam cũng không còn hưởng “lợi kép” như trước, bởi giờ đây các rào cản kỹ thuật, yêu cầu minh bạch nguồn gốc và tiêu chuẩn môi trường đang được siết chặt.

Ông Thành cũng chỉ ra rằng tác động tiêu cực sẽ vẫn rơi vào những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Mỹ như dệt may, da giày, thủy sản, đồ gỗ, điện tử. Ngoài ra, một số sản phẩm thiết bị máy móc cũng có thể bị ảnh hưởng ở mức độ nhất định. Các nhóm ngành này hiện chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ - ước tính hơn 30 tỷ USD, tương đương khoảng 120% nếu so với tổng cơ cấu kim ngạch của một số nước đang chịu áp lực cao từ thuế.

3.jpg
Một khảo sát gần đây của Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) trên hơn 1.500 DN cho thấy phần lớn đánh giá kinh tế hiện tại là tiêu cực, niềm tin vào triển vọng kinh doanh trong thời gian tới còn bất định…

Thông tin được ông Bùi Thanh Minh - Phó giám đốc chuyên môn, Văn phòng Ban IV chia sẻ. Đồng thời, ông Minh còn nói thêm, các SMEs đặc biệt là hộ kinh doanh cá thể đóng vai trò quan trọng trong mạng lưới phân phối truyền thống đang gặp khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu mới về minh bạch, chuyển đổi mô hình đăng ký kinh doanh... Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến đầu ra của DN sản xuất, bởi kênh bán hàng truyền thống bị thu hẹp, trong khi kênh siêu thị hoặc hiện đại lại đòi hỏi quy trình, tiêu chuẩn phức tạp hơn.

Bên cạnh đó, thương mại điện tử cũng đã làm cho thị trường của SMEs bị thu hẹp. Việc khuyến khích chuyển đổi số, chuyển đổi xanh nhưng tất cả đều cần chi phí đầu tư ban đầu khiến nhiều DN vẫn đang hoạt động cầm chừng.

Đáng nói là nhóm SMEs rất khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng và cảm thấy bất bình đẳng hơn trong cạnh tranh. Cụ thể, trong khi DN lớn không chỉ tiếp cận vốn dễ dàng mà còn lạc quan mở rộng đầu tư nhờ loạt nghị quyết mới thì SMEs chật vật trong thị trường nội địa, niềm tin suy giảm, chiến lược đầu tư bị lung lay. Khi niềm tin yếu, không DN nào dám mạo hiểm. “Hơn lúc nào hết, chính sách cần làm vai trò bà đỡ để giúp DN vượt qua bất định kinh tế toàn cầu”, ông Minh nhấn mạnh.

Ông Lê Phụng Hào - Chủ tịch HĐQT Global AAA Consulting chỉ ra, trong số 10 DN ông được tiếp xúc thì đến 6 đến 7 DN đang lo lắng, thậm chí là hoài nghi về môi trường kinh doanh. Chính vì thế, nếu muốn tái lập niềm tin, cần bắt đầu từ những hành động cụ thể, từ giảm chi phí phòng cháy chữa cháy, xây dựng, môi trường, đến đảm bảo việc không hình sự hóa các quan hệ dân sự - kinh tế. Đồng thời, cũng phải minh bạch trong thông tin chính sách bởi chính DN phản ánh, thứ họ lo nhất không phải là mức thuế bao nhiêu, mà là sự mù mờ về tương lai khiến không thể xây dựng kế hoạch phát triển…

Để giúp DN lấy lại niềm tin và tham gia thị trường trong 6 tháng cuối năm, ông Bùi Thanh Minh cho rằng: “Các chính sách hỗ trợ DN cần được thiết kế kịp thời nhưng phải “đo ni đóng giày” phù hợp với từng loại hình DN và cụ thể hóa, đặc trưng hóa cho từng địa phương. Nếu không, chính chúng ta sẽ lại tạo ra khó khăn cho DN”.

CĐ BÀI 3

Tăng trưởng kinh tế chưa đến từ sức mạnh chung của DN

Theo ông Lê Phụng Hào: “Dù tăng trưởng GDP của Việt Nam, cũng như tăng trưởng của TP.HCM trong 6 tháng đầu năm rất khả quan, thậm chí có thể nói là kỷ lục nhưng động lực tăng trưởng thì lại đến từ nhiều nguyên nhân, và mức độ đóng góp của khu vực DN rất phân mảnh. Các DN lớn thì một kiểu, SMEs một kiểu, DN siêu nhỏ lại hoàn toàn khác. Cách mỗi nhóm DN nắm bắt cơ hội cũng khác nhau: DN trực tiếp hoạt động xuất khẩu khác với DN bán hàng nội địa, DN kinh doanh khác DN được đầu tư công...

Đặc biệt, các DN bán hàng thông qua hệ thống GT (general trade: thương mại truyền thống) - tức là hệ thống hộ kinh doanh cá thể, điểm bán lẻ nhỏ cũng đang chịu áp lực. Lý do là vì các hộ kinh doanh này đang loay hoay với yêu cầu minh bạch, chuyển đổi sang mô hình đăng ký kinh doanh mới. Điều này khiến đầu ra của DN bị ảnh hưởng vì kênh GT là kênh phân phối chính với nhiều ngành hàng tiêu dùng.

Ông Hào khuyến cáo: “Nếu không có các điều chỉnh chính sách mang tính linh hoạt, sát thực tế và phân loại theo từng nhóm DN, thì những khó khăn này sẽ tiếp tục đè nặng lên khu vực tư nhân - vốn là động lực quan trọng của nền kinh tế.”

Sau khi TP.HCM mở rộng địa giới, có thể nhìn thấy một cơ hội thị trường lớn mở ra. Việc tận dụng được lợi thế vùng, đồng thời khai thác được tiềm năng kinh tế liên vùng có thể là bước ngoặt quan trọng. Tuy nhiên, bài toán đặt ra là thủ tục hành chính - nếu thực hiện được mô hình chính quyền đô thị thực chất, cải thiện triệt để thủ tục hành chính thì sẽ mang lại giá trị lớn cho DN. Ngược lại, nếu bộ máy không được ổn định, các quy trình không được thông suốt, thì chính những rào cản hành chính ấy sẽ gây khó khăn không nhỏ cho DN.

Tiền có nhưng DN không dám vay

Ông Đinh Hồng Kỳ - Chủ tịch HĐQT Công ty Secoin, Chủ tịch Hiệp hội Xây dựng và Vật liệu xây dựng TP.HCM cho biết, 6 tháng đầu năm, Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ tăng trưởng, bao gồm việc bơm ra thị trường hơn một triệu tỷ đồng thông qua tín dụng, điều hành linh hoạt tỷ giá và lãi suất. Tuy nhiên, phần lớn dòng vốn đang tập trung vào các lĩnh vực dễ sinh lời, ít rủi ro như bất động sản, chứng khoán và tiêu dùng ngắn hạn. Minh chứng là thị trường chứng khoán thời gian qua đã tăng trưởng mạnh. Trong khi đó, khu vực sản xuất, đặc biệt là DN vừa và nhỏ lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn. Không phải do ngân hàng siết tín dụng, mà vì DN không dám vay, do đầu ra sụt giảm mạnh, thị trường tiêu thụ yếu

Ảnh màn hình 2025-07-24 lúc 18.51.57

Các DN cũng đang chịu ảnh hưởng từ các yếu tố bất định như thay đổi trong chính sách thuế quan, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc; Xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu hay những rào cản mới phát sinh từ yêu cầu xuất xứ hàng hóa và tiêu chuẩn kỹ thuật. Điều này khiến cho hoạt động xuất khẩu của DN Việt có dấu hiệu chững lại, thậm chí sụt giảm trong một số ngành, nhiều nhà máy thu hẹp quy mô, ngừng sản xuất hoặc giải thể.

Trong khi đầu tư công được xác định là một trong những động lực quan trọng giúp GDP tăng trưởng, thì giải ngân thực tế vẫn rất chậm. Tính đến hết 5 tháng đầu năm, tại TP.HCM, tỷ lệ giải ngân mới đạt trên 10%, điều này ảnh hưởng lớn tới việc DN tham gia vào các chuỗi dự án hạ tầng quan trọng như giao thông, kênh rạch, trường học, bệnh viện…

Kinh tế vỉa hè ít được quan tâm

Cũng theo ông Đinh Hồng Kỳ, hiện nay có một lực lượng DN siêu nhỏ nhưng lại chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, thường được gọi là “kinh tế vỉa hè” cũng đang gặp vướng mắc nghiêm trọng về chính sách thuế. Nếu không có những điều chỉnh phù hợp, chúng ta có thể đánh mất một mảng kinh tế rất quan trọng vốn lâu nay vẫn đang tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người và hấp thụ một lượng lớn dòng tiền tiêu dùng xã hội.

Tâm lý chung của các DN siêu nhỏ hiện nay cũng bất định, mơ hồ và lo lắng trước những biến động sắp tới. Ông Kỳ cho biết, hiện, Hiệp hội DN TP.HCM vẫn đang cố gắng đóng vai trò như một “trạm radar” để cảnh báo sớm những cú sốc thị trường, chủ động tổ chức các diễn đàn đối thoại chính sách với ngân hàng, cơ quan thuế, chính quyền địa phương... để tìm cách gỡ điểm nghẽn về vốn, giải ngân đầu tư công và cải cách thủ tục hành chính. Riêng Hội DN Xanh TP.HCM cũng đang tích cực xây dựng năng lực cho DN thành viên để sẵn sàng ứng phó với các quy định và yêu cầu mới của thị trường quốc tế.

“DN sẽ còn phải đối mặt với nhiều thách thức mang tính hệ thống. Vì vậy, việc chuẩn bị trước các kịch bản và phương án hành động là điều bắt buộc nếu muốn giữ được sự ổn định, thích ứng và phát triển bền vững”, ông Kỳ nói.

905469054.jpg
4.jpg
TP.HCM tiếp tục giữ vai trò là đầu tàu kinh tế của cả nước. Tuy nhiên, để đạt được mức tăng trưởng 8,5% như mục tiêu Thành phố đề ra cho cả năm 2025, thì trong 6 tháng cuối năm phải tăng trưởng tới 9,44%, và riêng quý IV phải đạt mức 9,83%. Đây là những con số đầy thách thức, xét theo dữ liệu lịch sử lẫn trong bối cảnh hiện tại đầy khó khăn.

Ông Bùi Thanh Minh: “TP.HCM cần những bước đi mới, đột phá, thể hiện đúng tinh thần tiên phong đã từng làm nên vị thế suốt nhiều thập kỷ qua”.

Wb Ông Bùi Thanh Minh

Muốn đạt được tăng trưởng cao và bền vững, TP.HCM cần tận dụng hiệu quả “bộ tứ nghị quyết” 57, 59, 66 và 68, để trở thành địa phương đi đầu trong thử nghiệm chính sách đột phá. Ví dụ như Nghị quyết 68 đã thắp lên kỳ vọng lớn trong cộng đồng DN, bởi đây là lần đầu tiên vai trò của khu vực kinh tế tư nhân được khẳng định một cách rõ ràng, mang tính chiến lược.

Trong bối cảnh nhiều thách thức hiện nay, chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc thay đổi mô hình tăng trưởng, chuyển sang mô hình thâm dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đồng thời, cần phát triển mạnh mẽ lực lượng DN tư nhân trong nước, đặc biệt là các DN lớn, song song với xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ DN nhỏ, vừa và tiên phong.

Muốn làm được điều đó, trước hết TP.HCM cần tạo dựng lại niềm tin chiến lược cho DN, thông qua một số giải pháp cụ thể như cải cách hệ thống, giảm chi phí tuân thủ pháp luật, giúp DN vượt qua khó khăn, mà còn củng cố niềm tin dài hạn. Đồng thời, tạo sân chơi công bằng không chỉ giữa DN tư nhân và DN nhà nước, mà cả giữa các DN tư nhân với nhau. Thực tế hiện nay, có DN sau khi vượt qua thủ tục, lại tìm cách giữ đặc quyền, không muốn chia sẻ. Do đó, cần một “luật chơi” minh bạch, công bằng, tạo động lực cạnh tranh lành mạnh.

Bởi lẽ, nếu DN phải hoạt động trong một môi trường thiếu minh bạch, nhiều bất định, thì sẽ dẫn đến xu hướng “nội hóa FDI” - tức là DN nội chuyển thành FDI để tận dụng ưu đãi. Điều này làm phân mảnh và làm yếu đi nguồn lực từ bên trong, một thực trạng đáng lo ngại.

Bên cạnh đó, TP.HCM nên thực hiện những công việc xứng tầm một đô thị đầu tàu, chẳng hạn như đề xuất đăng cai tổ chức Diễn đàn Kinh tế Thế giới mùa thu (Autumn Davos) - tương tự Davos mùa đông ở Thụy Sĩ và Davos mùa hè ở Thiên Tân, Trung Quốc. Đây sẽ là cú hích mạnh mẽ để nâng tầm vị thế Thành phố, thu hút đầu tư, và khơi dậy sự mạnh dạn trong cộng đồng DN.

TP.HCM có sẵn nguồn lực rất lớn: vốn, tài sản, kinh nghiệm… đã được tích lũy qua nhiều năm. Chỉ cần có niềm tin chiến lược và môi trường chính sách ổn định, nguồn lực này sẽ được giải phóng, tạo ra đột phá mạnh mẽ cho phát triển kinh tế.

TS. Võ Trí Thành: “Các chính sách hỗ trợ cần có tầm nhìn dài hạn hơn, tạo nền tảng cho năm sau”

WB TS. Võ Trí Thành

Các chính sách hỗ trợ DN từng áp dụng trong giai đoạn Covid-19, đặc biệt là chính sách tiền tệ và tài khóa, vẫn đang tiếp tục phát huy tác dụng trong bối cảnh hiện nay như chính sách giãn nợ, khoanh nợ, giảm thuế phí, đến chính sách tiền tệ nới lỏng, hỗ trợ thanh khoản, giảm thuế VAT… đều là những biện pháp cần tiếp tục phát huy hiệu quả, nhưng phải điều chỉnh linh hoạt theo diễn biến mới của nền kinh tế.

Về chính sách tiền tệ, nhiệm vụ lớn nhất là duy trì sự hài hòa giữa điều hành lãi suất và tỷ giá nên cần giữ tỷ giá ổn định để không ảnh hưởng đến DN xuất, nhập khẩu, nhưng đồng thời cũng phải cố gắng duy trì mặt bằng lãi suất thấp để hỗ trợ sản xuất. Đây là một bài toán điều hành rất khó nhưng là trọng tâm trong thời gian tới.

Về tài khóa, đầu tư công đã bắt đầu “vào guồng”, nhất là tại các dự án hạ tầng trọng điểm. Bên cạnh đó, chính sách miễn giảm thuế phí đang triển khai thêm nhiều đề xuất mới như hỗ trợ lãi suất, hỗ trợ không hoàn lại và cả cơ chế hỗ trợ không hồi tố, tức đảm bảo quyền lợi cho những DN làm đúng nhưng lâm vào khó khăn khách quan.

Một điểm đáng lưu ý là tiêu dùng nội địa tuy còn yếu nhưng du lịch quốc tế đang có dấu hiệu khởi sắc. Hy vọng việc nới lỏng visa là một tín hiệu tích cực và chính sách này sẽ được cải thiện theo hướng cởi mở, thực chất hơn trong thời gian tới.

Quan trọng là hơn 2.000 dự án đang bị treo, với tổng vốn đầu tư lên đến 5,2 triệu tỷ đồng. Nếu chỉ giải tỏa được 30% trong số này thôi, thì không chỉ thị trường bất động sản mà cả những ngành nghề liên quan cũng sẽ được kích hoạt. Đây cũng là hình mẫu để chúng ta tiếp tục tháo gỡ các nút thắt trong triển khai các dự án đang “nằm chết”, cũng như chuẩn bị cho các dự án sắp tới.

Bên cạnh đó, trong giai đoạn sắp tới, Việt Nam phải chuẩn bị một cách quyết liệt và bài bản về nguồn nhân lực - không chỉ ở cấp DN, người lao động, mà còn ở bộ máy quản lý nhà nước và toàn bộ hệ thống giáo dục đào tạo.

Đặc biệt, các chính sách hỗ trợ hiện nay cần có tầm nhìn dài hạn hơn. Nếu chỉ tập trung vào giải pháp ngắn hạn như giảm thuế trong 6 tháng thì chưa đủ. DN cần một ‘bức tranh’ rõ ràng để có thể chuẩn bị nội lực. Tôi kiến nghị nên có chính sách với thời gian áp dụng khoảng 1,5 - 2 năm để tạo dư địa thực hiện cải cách nội tại, thay vì chỉ tìm kiếm động lực từ bên ngoài.

Ông Lê Phụng Hào: “Lắng nghe tiếng nói từ khối DN nhỏ, vừa và hộ kinh doanh để xây dựng các chính sách hỗ trợ sát thực tế hơn”

Ông Lê Phụng Hào

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu và nội địa còn nhiều biến động, các DN cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tránh phụ thuộc quá mức vào thị trường Mỹ. Để làm được điều đó, cần tận dụng hiệu quả các FTA mà Việt Nam đã ký kết. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là xa rời thị trường quan trọng này. Cần tiếp tục tận dụng các chính sách thuận lợi để giữ vững và gia tăng xuất khẩu vào thị trường Mỹ, nhưng với chiến lược bài bản, không lệ thuộc.

Sau khi TP.HCM vận hành chính quyền hai cấp, điều DN quan tâm hơn cả là cải cách thủ tục hành chính phải thực chất, cắt giảm gánh nặng chi phí cho DN. Chủ tịch UBND TP.HCM đã đưa ra cam kết cắt giảm 30% thủ tục hành chính cho DN. Nếu thực hiện được, đây sẽ là bước tiến lớn giúp tiết kiệm chi phí và thời gian, từ đó tạo môi trường kinh doanh minh bạch, thông thoáng.

Hộ kinh doanh - mắt xích quan trọng trong chuỗi phân phối là các hộ kinh doanh cá thể, vốn đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái phân phối hàng hóa, nhất là ở các vùng nông thôn và ngoại ô, nếu không được chuẩn bị tốt trước những thay đổi về chính sách thuế và chuyển đổi số, họ có thể ngừng hoạt động, gây đứt gãy chuỗi cung ứng từ nhà máy đến người tiêu dùng. Cần có lộ trình, hướng dẫn cụ thể, và chương trình truyền thông rõ ràng để hỗ trợ nhóm này chuyển đổi và thích nghi.

Tôi đề nghị trong các hội nghị, đối thoại chính sách, ngoài việc mời các DN lớn, Chính phủ và các cơ quan chức năng cần dành không gian lắng nghe tiếng nói từ khối DN nhỏ, vừa và hộ kinh doanh để xây dựng các chính sách hỗ trợ sát thực tế hơn.

Ông Trần Việt Anh - Chủ tịch Hiệp hội Tái chế Việt Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM: “Không thể bỏ qua vai trò của cộng đồng hộ kinh doanh cá thể”

WB Ông Trần Việt Anh

Chúng ta thường nói đến việc hỗ trợ SMEs, nhưng lại ít nhắc đến gần 5 triệu hộ kinh doanh cá thể - một lực lượng đang đóng góp âm thầm nhưng rất lớn cho nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là: ai đang quản lý và hỗ trợ họ? Họ gần như chưa được quan tâm đúng mức.

Nếu mỗi hộ này đóng góp chỉ 200.000 đồng/năm, thì tổng cộng đã là khoảng 1 triệu tỷ đồng - một con số khổng lồ. Nhưng liệu chính họ có biết điều đó không? Có ai giúp họ nhận ra rằng, họ đang là một phần quan trọng của nền kinh tế quốc gia? Họ xứng đáng được ghi nhận, được tôn vinh và khơi dậy lòng tự hào, thay vì bị xem là khu vực kinh tế "ngoài lề".

Cũng cần đặt câu hỏi: bao nhiêu người trong số họ hiểu được Nghị quyết 68 - một chính sách lớn đang hướng đến DN tư nhân? Một tiệm rửa xe nhỏ liệu có biết mình được hỗ trợ gì? Rõ ràng, chính sách đang ở rất xa họ - từ thông tin đến khả năng tiếp cận.

Thêm vào đó, tỷ lệ hàng hóa không rõ nguồn gốc đầu vào trong nhóm hộ cá thể là rất cao. Nhiều người không hề có bất kỳ chứng từ xuất xứ nào. Nếu không có giải pháp đào tạo, truyền thông và hướng dẫn vận hành minh bạch hơn, họ sẽ luôn đứng trước nguy cơ bị loại khỏi chuỗi cung ứng chính thức.

Ngay cả khi chưa nâng cấp thành DN, nhóm này vẫn cần được hỗ trợ để kinh doanh bài bản, tuân thủ pháp luật và giảm thiểu rủi ro. Tóm lại, gần 5 triệu hộ cá thể đang là một lực lượng kinh tế quan trọng, đóng góp đáng kể vào ngân sách và tăng trưởng. Nhưng để phát huy được vai trò này, họ cần một chiến lược riêng: từ nghiên cứu, chính sách, cho đến hành động cụ thể - không thể bị bỏ quên trong bức tranh phục hồi và phát triển kinh tế hiện nay.

GS. Trần Ngọc Anh: “Tăng trưởng GDP đặt mục tiêu 8,3 - 8,5% trong năm 2025 là một con số khá thách thức, nhưng tôi tin là khả thi nếu có các biện pháp điều hành phù hợp”

GS Trần Ngọc Anh ảnh

Việt Nam có tiềm năng lớn để đạt được mức tăng trưởng như vậy nhưng cần có sự kết hợp đồng bộ từ các chính sách vĩ mô đến cải cách vi mô. Tăng trưởng hiện nay không thể dựa vào các biện pháp ngắn hạn hay các gói kích cầu nữa, mà phải dựa vào tái cơ cấu nền kinh tế, vào năng suất, vào chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

DN Việt, đặc biệt là khối nhỏ và vừa, hiện thiếu năng lực chống chịu với các cú sốc như gián đoạn chuỗi cung ứng hay chi phí tài chính tăng. Họ linh hoạt nhưng thiếu hệ thống, vận hành còn cảm tính, thiếu công cụ quản trị và phân tích bài bản. Việc đầu tư vào năng lực quản trị, công nghệ và thông tin là cấp thiết nếu muốn vươn lên chuyên nghiệp.

Đặc biệt, cần quan tâm vai trò của dữ liệu và phân tích số liệu - cả trong hoạch định chính sách lẫn vận hành DN. Việt Nam hiện có nhiều dữ liệu, nhưng phân tán và thiếu kết nối giữa các hệ thống. Các cơ quan nhà nước cần xây dựng nền tảng dữ liệu kinh tế thống nhất, liên thông giữa các lĩnh vực, hỗ trợ phân tích chính xác để ban hành chính sách sát thực tiễn.

DN cũng cần thay đổi cách vận hành - từ ra quyết định dựa trên cảm tính sang phân tích dữ liệu thực tiễn. Khi nắm bắt được xu hướng tiêu dùng, hành vi khách hàng hay hiệu quả hoạt động theo từng phân khúc, DN sẽ tối ưu hóa sản phẩm và chi phí tốt hơn.

5.jpg
Đặt mục tiêu tăng trưởng GDP quốc gia 8,3% - 8,5%, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chỉ đạo: “Đây là mục tiêu nhất định phải đạt được”.
CĐ BÀI 4

Với những nỗ lực cải cách về chính sách, quản lý và nhiều hỗ trợ khác từ Chính phủ, các cơ quan Bộ, ngành liên quan cùng với sự linh hoạt, kiên trì và chủ động thích ứng của DN nửa cuối năm 2025 sẽ là giai đoạn chạy nước rút đầy áp lực nhưng cũng nhiều cơ hội và hoàn toàn có cơ sở để các DN Việt Nam tạo bước đột phá.

Chiến lược DN nửa cuối năm

Theo ông Hào, nửa cuối năm là giai đoạn nước rút, buộc DN phải quyết liệt tái cấu trúc, cắt bỏ những phần trì trệ và đẩy mạnh số hóa. “Phải tập trung vào năng suất, công nghệ, quản trị và kiểm soát chi phí”, ông Hào nhấn mạnh. Trong khi đó, TS. Võ Trí Thành thì nhấn mạnh sự tái cấu trúc phải toàn diện từ thị trường, mô hình kinh doanh đến nguồn nhân lực. Ông đặc biệt lưu ý DN không nên dàn trải mà cần xác định rõ phân khúc chiến lược như ESG, công nghệ cao, hoặc tiêu dùng bền vững để đầu tư chiều sâu. Bằng cách đó, DN mới có thể tránh bẫy giá rẻ và tiến lên các nấc thang giá trị cao hơn trong chuỗi cung ứng.

Về vấn đề ứng phó với thuế quan trước mắt, các chuyên gia cho rằng DN, đặc biệt là DN trong các ngành xuất khẩu chủ lực như dệt may, da giày, thủy sản, điện tử… cần chuyển từ tâm thế bị động sang chủ động xây dựng nhiều kịch bản ứng phó. Trong đó đặc biệt chú ý tới các yêu cầu ngày càng khắt khe về tỷ lệ nội địa hóa, chứng từ xuất xứ, tiêu chuẩn môi trường và lao động. Chủ động rà soát lại cơ cấu nguyên liệu đầu vào, chuẩn hóa hệ thống chứng từ xuất xứ và nâng cao năng lực truy xuất minh bạch là yêu cầu cấp thiết mà DN cần triển khai ngay. Bên cạnh đó, các chuyên gia nhấn mạnh, DN không thể tiếp tục lệ thuộc vào một vài thị trường chủ lực như Mỹ, mà cần sớm đa dạng hóa đầu ra, tận dụng tốt hơn các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết để mở rộng thị trường và giảm thiểu rủi ro.

Trong mục tiêu hỗ trợ DN đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và mở rộng đầu ra, bà Trịnh Thị Hương - Phó cục trưởng Cục phát triển Doanh nghiệp tư nhân và Kinh tế tập thể, Bộ Tài chính cho biết, Chính phủ đã xác định rõ các chính sách trọng tâm sẽ được triển khai trong 6 tháng cuối năm 2025. Trước hết, sẽ khởi động tiến trình đàm phán và ký kết một loạt FTA mới với các đối tác tiềm năng như Trung Đông, Ấn Độ và Mỹ Latinh - những khu vực đang có nhu cầu lớn về hàng hóa và dịch vụ từ Việt Nam. Đồng thời, Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) cũng sẽ được nâng cấp nhằm tạo thêm dư địa cho dòng chảy thương mại trong khu vực.

Song song với các hiệp định, Chính phủ cũng có kế hoạch mở rộng chính sách miễn thị thực đơn phương cho công dân của 12 quốc gia châu Âu, nhằm kích cầu du lịch, thúc đẩy dịch vụ lưu trú - giải pháp đặc biệt quan trọng đối với các DN trong lĩnh vực du lịch và khách sạn.

Cuối cùng, vai trò của liên kết được các chuyên gia đánh giá là “điều kiện sống còn” với DN nhỏ, bởi trong một thế giới nhiều rủi ro, không một DN đơn lẻ nào có thể chống đỡ nếu thiếu liên kết, cả về thị trường, công nghệ lẫn chuỗi cung ứng. Các hiệp hội, hội ngành nghề không chỉ là nơi chuyển tải chính sách mà còn cần trở thành trung tâm hỗ trợ kết nối, chia sẻ thông tin và hình thành hệ sinh thái “cộng lực” cho DN.

Wb Bà Trịnh Thị Hương

Bà Trịnh Thị Hương - Phó cục trưởng Cục phát triển Doanh nghiệp tư nhân và Kinh tế tập thể, Bộ Tài chính

4 nhóm chính sách trọng tâm, đồng hành cùng DN trong thời gian tới:

Thứ nhất, nhóm chính sách “3 giảm”: Giảm chi phí, giảm thủ tục và giảm điều kiện kinh doanh. Chính phủ yêu cầu cắt giảm ít nhất 30% trong mỗi hạng mục nói trên. Tại phiên họp thường kỳ tháng 6, Thủ tướng đã yêu cầu đơn giản hóa 324 thủ tục hành chính, đồng thời tích hợp giấy tờ qua ứng dụng VNeID nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí cho DN. Bên cạnh đó, việc xử lý các điểm nghẽn trong quy hoạch đất đai, giao thông, thủy lợi cũng được triển khai khẩn trương để gỡ khó cho hàng loạt dự án đang bị đình trệ.

Thứ hai, nhóm chính sách tài khóa với trọng tâm là giảm thuế và hỗ trợ tài chính cho DN nhỏ, siêu nhỏ. Cụ thể, thuế VAT đã được giảm từ 10% xuống còn 8% đối với nhiều loại hàng hóa, dịch vụ. Các chính sách ưu đãi thuế thu nhập DN cũng được đưa ra như: miễn thuế 2 năm, giảm 50% thuế trong 3 - 5 năm tiếp theo cho DN đổi mới sáng tạo; miễn thuế 3 năm đầu với DN nhỏ và vừa mới thành lập. Ngoài ra, các chi phí cho R&D được khấu trừ gấp đôi, DN được phép trích tối đa 20% thu nhập để lập quỹ phát triển khoa học công nghệ. Chính phủ cũng hỗ trợ toàn bộ chi phí đào tạo kế toán, thuế, quản trị cho DN nhỏ và hộ kinh doanh cá thể…

Thứ ba là nhóm chính sách tín dụng, trong đó Ngân hàng Nhà nước được chỉ đạo gỡ bỏ dần các công cụ hành chính, chuyển sang điều hành tín dụng theo cơ chế thị trường. Điều này được kỳ vọng sẽ giúp tăng cung tín dụng, đặc biệt cho các ngành sản xuất. Một số gói vay lớn đã được triển khai.

Cuối cùng là nhóm chính sách về thị trường và hội nhập: Chính phủ đang khởi động đàm phán các FTA mới với Trung Đông, Mỹ Latin và Ấn Độ, đồng thời nâng cấp hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN. Đồng thời, mở rộng diện miễn thị thực đơn phương cho 12 nước châu Âu. Bộ Công Thương được giao nhiệm vụ thành lập thêm các văn phòng xúc tiến thương mại tại nước ngoài, tăng cường hỗ trợ DN khai phá thị trường mới.

Ý Nhi - Hưng Khánh

(0) Bình luận
Nổi bật
Đọc nhiều
GDP 8,5%: Cú hích để kinh tế Việt Nam bứt phá
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO