Năm 2003 - cách đây 20 năm, lần đầu tiên tôi đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam sang thủ đô Kuala Lumpur (Malaysia) họp hội nghị của Hội đồng tư vấn kinh doanh (HĐTVKD) ASEAN. Thời điểm đó Việt Năm đã là thành viên của ASEAN và đã ký hiệp định thương mại với Mỹ, nhưng vẫn chưa gia nhập WTO nên đất nước dù đã khởi sắc nhưng cuộc sống con người và hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME).
Tôi lên đường đi công tác với một tâm trạng không mấy lạc quan về đất nước và con người khu vực ASEAN nói chung và Malaysia nói riêng. Trong tâm trí mình, tôi tự nhủ chắc Malaysia cũng không khác gì các thành phố ở Việt Nam và không bao giờ có thể như các thành phố như ở Australia hoặc thậm chí như Slovakia - những nơi mà tôi đã từng sống và học tập nhiều năm.
Có nhiều nhà bình luận kinh tế cho rằng, muốn nhận xét một nền kinh tế, một đất nước có phát triển bền vững hay không thì không nên nhìn quá nhiều vào các báo cáo thống kê mà cần quan sát cả vào hai vấn đề: hệ thống hạ tầng cơ sở của quốc gia đó; chính sách của Chính phủ với tầng lớp doanh nghiệp và người dân dễ bị tổn thương nhất trong xã hội.
Thực vậy, khi bước xuống sân bay quốc tế Kuala Lumpur tôi đã bị choáng ngợp bởi sự hiện đại nơi này. Nó mang dáng dấp của một cảng hàng không - của một nước phát triển. Đường dẫn vào thành phố có các hệ thống tiện lợi không chỉ dành cho phương tiện giao thông cá nhân mà còn có đầy đủ phương tiện giao thông công cộng.
Đi vào thành phố với vận tốc xe ô tô rất nhanh và nhìn xa xa vào trung tâm, tôi đã thấy những ngôi nhà hiện đại với điểm nhấn là tháp song sinh Kuala Lumpur từng là công trình cao nhất thế giới. Hai bên đường là những dãy phố có hàng cây xanh, nhà cửa, trung tâm mua sắm … sầm uất, hiện đại với những người dân đi lại và sinh hoạt văn minh không khác nhiều so với những người dân ở các nước phát triển mà tôi đã từng đến.
Quá trình làm việc với HĐTVKD Malaysia, họ tự hào cho biết, hệ thống chính quyền của Malaysia có mô hình gần với hệ thống nghị viện Westminster và hệ thống pháp luật dựa trên thông luật của Anh quốc. Tài chính vi mô, hoặc các dịch vụ tài chính cho người nghèo, cung cấp một công cụ xuyên suốt đặc biệt có khả năng giảm bớt một số vấn đề thách thức nhất của thời đại: nghèo đói cùng cực, thất nghiệp, bình đẳng giới, an ninh lương thực, tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện và giảm thiểu chênh lệch giàu nghèo.
Toàn cảnh buổi làm việc giữa VCCI-HCM và TT XTĐT,TM&DL tỉnh Bình Phước - năm 2022 |
Malaysia là một nền kinh tế thị trường định hướng nhà nước tương đối mở và công nghiệp hóa mới. Tuy nhiên, vì sự bất bình đẳng kinh tế tồn tại giữa các dân tộc khác nhau, (người Hoa chiếm khoảng một phần ba dân số song lại chiếm 70% giá trị vốn hóa thị trường của quốc gia), Chính phủ Malaysia đã có chính sách cung cấp tùy chọn tín dụng vi mô linh hoạt cho tất cả những doanh nhân SME và MSME Malaysia đang có kế hoạch bắt đầu kinh doanh trong bất kỳ lĩnh vực nào. Mức vay có thể tới 50.000 RM (tương đương gần 300 triệu đồng) và khoản vay tối thiểu là 3.000 RM (khoảng 160 triệu đồng) mà không cần phải có tài sản thế chấp.
Chuyến đi công tác cách đây 2 thập kỷ đó, đã làm tôi thay đổi suy nghĩ và tạo cho tôi một niềm tin về hướng đi hiệu quả của các quốc gia trong khu vực trũng của kinh tế thế giới như Malaysia và Việt Nam… để có khát vọng xây dựng một đất nước phát triển và có sức cạnh tranh cao. Chính sách đầu tư tốt vào hạ tầng giao thông công cộng qua các hình thức đầu tư hiệu quả PPP… và tín dụng vi mô đã góp phần quan trọng biến đổi một đất nước có diện tích tương đương và dân số chỉ bằng một phần ba Việt Nam với văn hóa đa tôn giáo (Hồi, Kitô, Phật, Hindu …) trở thành quốc gia đoàn kết và phát triển vượt bậc.
Chính vì vậy, tôi không có gì đáng ngạc nhiên khi hiện nay, theo nghiên cứu và khảo sát của công ty Preply có trụ sở tại Mỹ, thủ đô Kuala Lumpur của Malaysia đã vượt qua những cái tên như Dubai (UAE) và Montreal (Canada) để trở thành thành phố được người nước ngoài mong muốn đến sống.
Ở Việt Nam, sau gần 30 năm gia nhập ASEAN, với chính sách hội nhập lấy khu vực láng giềng ASEAN làm trọng tâm để hợp tác và phát triển nói chung và khai thác một trong những nguồn lực quan trọng nhất của đất nước là biển Đông nói riêng, chúng ta đã trở thành một quốc gia có vị thế quan trọng trong khu vực ASEAN và quốc tế. Ngoài ra, với sự tham gia hội nhập hiệu quả của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam mà tổ chức đại diện là VCCI thông qua các cơ chế hợp tác doanh nghiệp song phương như: Diễn đàn doanh nghiệp giữa Việt Nam với các nước, HĐTVKD APEC và ASEAN, Việt Nam hiện nay đã trở thành một nền kinh tế mở, phát triển nhanh, có quan hệ kinh tế song phương với trên 230 nước và vùng lãnh thổ. Việt Nam cũng đã ký kết 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) với 60 nền kinh tế. Tính chung năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa cả nước đạt trên 700 tỷ USD, gấp gần 2 lần tổng sản phẩm quốc nội GDP.
Và chỉ 20 năm nữa khi chúng ta kỷ niệm 80 mùa Xuân VCCI và sau đó là 100 năm ngày thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, doanh nghiệp và doanh nhân vẫn sẽ là động lực chính để phát triển kinh tế. Chúng ta sẽ nhìn thấy sự phát triển của các hiệp hội ngành nghề cốt lõi của Việt Nam dưới ngọn cờ VCCI ở trong nước, những thương hiệu sản phẩm nổi tiếng “Made in Vietnam” sẽ song hành cùng với sự hiện diện của các VietCham trên các thị trường quốc tế chiến lược của Việt Nam…
Trong thời đại kỷ nguyên công nghệ số, nền kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền, cùng với chính sách của Chính phủ phát triển hạ tầng là một trong 3 mũi nhọn đột phá cũng như chính sách tài chính vĩ mô và vi mô để phát triển bền vững và “không ai bị bỏ lại phía sau”, chúng ta sẽ có được sự đồng thuận và đoàn kết của mọi giai tầng trong xã hội, tạo nên một nguồn lực xã hội vô cùng to lớn đảm bảo cho tất cả chúng ta cùng đi, cùng tiến xa và “sánh vai với các cường quốc năm châu”.
(*) Nguyên Chủ tịch ASEAN BAC