Hợp đồng mua bán giữa kênh phân phối lớn và các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa đa phần theo mô típ “cá lớn nuốt cá bé”, nghĩa là khi nhận hợp đồng mua bán chỉ có khả năng thương lượng, đàm phán tính giá chiết khấu khi đưa hàng hóa vào kênh phân phối, còn những điều khoản ràng buộc khác dường như không thể đàm phán hoặc thương lượng gì thêm. Đây có thể là rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ.
Việc Big C tạm ngưng nhập hàng của 200 doanh nghiệp may vừa qua đã cho thấy phần nào về những rủi ro pháp lý có thể xảy ra dựa trên hợp đồng mua bán giữa các kênh phân phối và doanh nghiệp cung cấp hàng hóa.
Theo luật sư Lê Văn Ngọc (Công ty Luật TNHH Thịnh Trí), với quy định hiện tại, trước khi kinh doanh tại Việt Nam, các kênh phân phối của nước ngoài nói chung đều có cam kết với Chính phủ và Bộ Công Thương về việc bán hàng Việt Nam, nhưng do tình hình kinh doanh thực tế nên các công ty này có thể thay đổi cam kết đó. Hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có quy định tỷ lệ phần trăm hàng Việt Nam trên kệ của doanh nghiệp bán lẻ FDI nên không thể can thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh của họ.
Nghiên cứu các quy định của pháp luật thì vấn đề này không vi phạm Luật Dân sự cũng không vi phạm Luật Cạnh tranh mà phải dựa trên hợp đồng giữa kênh phân phối và doanh nghiệp về thời gian giao hàng, giá cả xem có dấu hiệu vi phạm hay không.
Một số doanh nghiệp đưa hàng hóa vào Big C chia sẻ: Để đưa được hàng hóa vào Big C cần phải theo một quy trình chuẩn có sẵn hằng năm. Đầu tiên là thực hiện bảng thỏa thuận cam kết thương mại (một loại phụ lục hợp đồng) từ tháng 3 đến tháng 6 mỗi năm. Trong văn bản này sẽ là thỏa thuận về việc cung cấp hàng hóa với mức giá bán, mức chiết khấu, các chương trình khuyến mãi trong một năm. Sau khi đã ký kết ở bản cam kết thương mại giữa hai bên thì mới chuyển qua ký hợp đồng mua bán với các điều khoản về chất lượng, số lượng và thời gian giao hàng. Toàn bộ công việc này sẽ hoàn tất trước ngày 30/6 hằng năm. Trong hợp đồng sẽ có điều khoản doanh nghiệp phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa khi giao, thời gian, tiến độ. Ngoài ra, hợp đồng của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài có rất nhiều điều khoản chặt chẽ về nội dung, từ ngữ. Thậm chí hợp đồng có thể lên đến vài chục trang, cả tiếng Anh và tiếng Việt đan xen. Với một luật sư thông thạo, khi phân tích từ ngữ trong các điều khoản của bản hợp đồng đó chưa chắc đã hiểu đầy đủ huống chi một doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng hóa. Do vậy, doanh nghiệp khi đọc bộ hợp đồng này dường như không biết thương lượng gì thêm.
Ở trường hợp này, luật sư Nguyễn Sỹ Long (Công ty Luật TNHH Thịnh Trí) chia sẻ: “Các kênh phân phối đều có đầy đủ lý do khi thực hiện các bước quy định từ cam kết thương mại cho đến hợp đồng mua bán. Kênh phân phối không hẳn sai với nhà cung cấp hàng hóa vì cam kết thương mại chỉ là cam kết về sản phẩm để phục vụ cho hợp đồng chính, nhưng hợp đồng chính trong năm mới thì chưa được ký nên về mặt pháp lý không có điều gì để buộc họ bồi thường. Còn cam kết về sản phẩm theo mẫu mã, chất lượng hay giá cả chỉ phục vụ cho hợp đồng chính, còn thỏa thuận về nguyên tắc hay là những bước đầu để tiến hành ký kết một hợp đồng chính thức thì chưa thể xem là vi phạm. Đứng ở góc độ pháp lý, đội ngũ nhân sự của kênh phân phối luôn chuẩn bị rất bài bản trước khi thực hiện hợp đồng chứ không làm việc một cách tùy tiện, nhất là khi tạm ngưng nhận hàng của nhà cung cấp”.
Trường hợp khác là kênh phân phối và doanh nghiệp có nhiều năm gắn bó nhưng đến ngày 30/6/2019 kênh phân phối tạm ngưng nhập hàng thì có thể xem đó là một dấu hiệu của sự vi phạm.
“Theo tiền lệ lâu nay thì cam kết là để ràng buộc hai bên, vì vậy bên kênh phân phối dừng hợp đồng trong khi bên nhà cung cấp hàng hóa vẫn triển khai công việc bình thường thì phải chịu trách nhiệm đền bù thiệt hại. Mặc dù cam kết chưa phải là một hợp đồng, chưa phải là một văn bản có giá trị pháp lý để xem xét trách nhiệm của các bên nhưng đó là một cam kết thể hiện ý nguyện, ý chí để cùng triển khai công việc. Một khi bên doanh nghiệp đã dùng nguồn lực để sản xuất nhằm cung cấp sản phẩm theo cam kết nhưng bên kênh phân phối lại không nhận hàng dẫn đến thiệt hại thì đó là lỗi bên kênh phân phối, phải chịu toàn bộ trách nhiệm. Tất nhiên đây chỉ là dấu hiệu vi phạm bước đầu, còn để làm rõ mọi thứ bên trong thì doanh nghiệp sẽ luôn là bên chịu thiệt thòi, bởi tính pháp lý còn quá mong manh - luật sư Nguyễn Sỹ Long bổ sung.
Ông Nguyễn Hồ Thiện Nhân, Phó Tổng thư ký Hiệp Hội Doanh nghiệp TP.HCM phụ trách Trung tâm Tư vấn pháp luật thì cho rằng việc Big C thông báo tạm ngưng chứ không phải ngưng nhập hàng của 200 doanh nghiệp may mặc Việt Nam là một hình thức lách vi phạm hợp đồng và có thể trong thời gian tới sẽ có thêm những doanh nghiệp khác bị bị tạm ngưng khi thực hiện hợp đồng mới. Do vậy, doanh nghiệp ngoài việc sản xuất sản phẩm cung cấp cho kênh phân phối thì phải nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, chất lượng cao để không chỉ ký hợp đồng vào chu kỳ sau mà còn sẳn sàng cho những hợp đồng ngoài kênh siêu thị. Doanh nghiệp cũng không nên quá lệ thuộc vào một kênh phân phối, có như thế mới hoàn toàn chủ động trong kinh doanh.