Phương pháp tán sỏi ngoài cơ thể (Extra corporal shock wave lithotripsy - E.S.W.L) là một thủ thuật ít gây sang chấn nhằm làm tan sỏi từ xa mà không cần phải phẫu thuật.
Phương pháp tán sỏi ngoài cơ thể (Extra corporal shock wave lithotripsy - E.S.W.L) là một thủ thuật ít gây sang chấn nhằm làm tan sỏi từ xa mà không cần phải phẫu thuật.
Sỏi thận là một bệnh thường gặp và hay tái phát do sự kết thạch của một số thành phần trong nước tiểu ở đường tiết niệu trên, trong những điều kiện lý hóa nhất định. Sỏi thận có thể gây tắc đường niệu, nhiễm khuẩn và suy thận, gây ảnh hưởng tới sức khoẻ và nguy hiểm tới tính mạng.
Những năm gần đây, việc hiểu biết về cơ chế hình thành sỏi thận đã làm cho việc chẩn đoán và điều trị bệnh có hiệu quả hơn rất nhiều. Ngoài việc điều trị nội khoa và phẫu thuật kinh điển, ngày nay, kỹ thuật tán sỏi ngoài cơ thể và nội soi lấy, phá sỏi đã rất phổ biến.
Phương pháp tán sỏi ngoài cơ thể là một thủ thuật ít gây sang chấn nhằm làm tan sỏi từ xa mà không cần phải phẫu thuật. Năm 1974, phương pháp này được nghiên cứu, thực nghiệm tại Trường Đại học Munich (Đức) và đến năm 1980, Hãng Dornier sản xuất chiếc máy tán sỏi ngoài cơ thể đầu tiên áp dụng trên người.
Thế hệ cũng như hãng sản xuất máy tán sỏi khác nhau cũng có ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả tán sỏi. Chẳng hạn, máy tán sỏi thế hệ đầu sử dụng sóng xung động phát ra từ hệ thống thủy điện lực và định vị sỏi thận bằng tia X-quang. Ở các máy thế hệ sau, các xung động phát ra từ hệ thống áp điện hoặc điện từ, định vị sỏi bằng siêu âm, do đó khả năng xác định chính xác vị trí của sỏi cũng như tầm soát sỏi trong trình tán được tốt hơn. |
Từ đó đến nay, nhiều nước như Đức, Pháp, Mỹ, Trung Quốc... đã phát triển nhiều loại máy tán sỏi và đã có tới ba thế hệ máy ra đời.
Nguyên lý chung của những máy tán sỏi ngoài cơ thể là tạo ra những loạt sóng xung xuất phát từ một nguồn năng lượng (thủy điện lực, điện từ trường...), tập trung vào một tụ điểm là vị trí của viên sỏi. Những loạt sóng xung liên tiếp sẽ làm vỡ vụn viên sỏi nhờ lực nén và lực căng tại ngay viên sỏi.
Thông thường, sóng xung động được phát bằng đúng nhịp đập của tim, tức 70-80 lần/phút, mỗi lần phát khoảng 200-300 xung động, sau đó kiểm tra lại vị trí và theo dõi độ tan vỡ của sỏi.
Kết quả điều trị thường rất tốt với sỏi có kích thước < 20mm, thời gian thường kéo dài khoảng 30-45 phút: Viên sỏi bị phá vỡ, sỏi vụn sẽ thoát ra ngoài theo đường tự nhiên trong vài ba tuần. Sau tán, bệnh nhân được theo dõi, điều trị ngoại trú vài ngày. Thời gian này bệnh nhân phải uống thật nhiều nước.
Tuy là một thủ thuật không hoặc rất ít gây sang chấn, nhưng liệu sóng xung động có làm xơ hóa nhu mô thận hay làm giảm hoạt động của nhu mô thận hay không thì hiện nay chưa có thống kê nào đề cập. Vì vậy, lời khuyên của các nhà chuyên môn là không nên tán sỏi quá ba lần. |
Sau khi tán sỏi, bệnh nhân có thể tiểu ra máu nhẹ, đau dọc theo hướng từ hố thận tới bàng quang. Những trường hợp sỏi chưa tan hết có thể được tán lại sau 15 ngày, nhưng không nên quá ba lần, vì có những sỏi quá rắn (sỏi cystein, sỏi acid uric) hoặc quá mềm, không thích hợp với phương pháp này. Tán sỏi ngoài cơ thể quá nhiều lần còn có thể gây ra nguy cơ chảy máu, tạo thành khối máu tụ ở thận.
Có chuyên gia đã sử dụng phương pháp tán sỏi ngoài cơ thể đối với cả những viên sỏi có kích thước lớn hơn 20mm, và đối với sỏi nhiều viên ở các vị trí khác nhau, nhưng kết quả còn nhiều tranh luận.
Mặc dù phương pháp tán sỏi ngoài cơ thể có nhiều ưu điểm, nhưng không thể áp dụng với các trường hợp sỏi có đường kính quá lớn, sỏi san hô, sỏi quá rắn như sỏi cystein, sỏi acid uric, hoặc sỏi bùn, sỏi đã gây biến chứng nhiễm khuẩn đường niệu, hay ở những bệnh nhân có dị dạng đường tiết niệu và mắc bệnh rối loạn về đông máu, bệnh tim mạch, các bệnh mạn tính lao thận, viêm thận mạn... Những trường hợp này phải áp dụng các phương pháp điều trị khác như phẫu thuật lấy sỏi kinh điển hay mổ nội soi.