Năm 2019 đang dần khép lại, mức tăng trưởng kinh tế cả năm khoảng 7% được cho là khả thi. Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp (DN) lấy vốn từ đâu để sản xuất kinh doanh nhằm đạt mức tăng trưởng dự báo 6,8% cho năm 2020?
Việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) giảm lãi suất cho vay 0,5%/năm đối với các lĩnh vực ưu tiên, như vốn phục vụ nông nghiệp, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV)... được xem là động thái tích cực và hợp lý tại thời điểm này. Theo chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Trí Hiếu, mức giảm lãi suất 0,5% tác động đến DN chắc chắn cần thời gian vì hai yếu tố. Thứ nhất, cần độ trễ. Giảm lãi suất không có nghĩa tất cả DN đều được hưởng, vẫn có những DN vẫn phải chịu lãi suất hiện tại cho đến thời điểm hưởng lãi suất được điều chỉnh, cho đến thời điểm đó, những DN đang chịu lãi suất hiện tại và đang còn giá trị sẽ không chịu tác động. Thứ hai, lãi suất cho vay đang ở mức rất cao, từ 9-11%, bây giờ giảm 0,5% có tác động nhưng sẽ không nhiều.
Cơ cấu dòng vốn đang thay đổi
DN đang có 6 dòng vốn khác nhau, theo phân tích của TS. Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng của BIDV. Thứ nhất, vốn từ ngân sách, hỗ trợ DN thông qua các quỹ, như Quỹ DNNVV, Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV và chính sách thuế; DNNVV có thể được hưởng mức thuế 15-17% nếu Quốc hội thông qua chính sách thuế mới vào tháng 5/2020. Thứ hai, vốn từ các đối tác, bởi vì trong tài chính, đối tác cho “chịu” thêm ngày nào tốt ngày đó, giúp DN tận dụng nguồn vốn cho sản xuất, kinh doanh. Thứ ba, vốn nước ngoài, các quỹ đầu tư quan tâm đến thị trường Việt Nam đã giúp nhiều DN tiếp cận được nguồn vốn tốt. Thứ tư, vốn tín dụng và bảo lãnh, nguồn vốn này được đề cập nhiều nhưng đang giảm trong cấu trúc vốn của DN, dòng vốn vay ngân hàng của DN đã giảm từ mức 57% năm 2016 xuống 46% hiện nay. Thứ năm, quỹ đầu tư thị trường vốn, nhất là từ trái phiếu và cổ phiếu, nhưng DN lại chưa quan tâm nên mức độ tăng chưa nhiều. DN huy động từ thị trường cổ phiếu khoảng 280 nghìn tỷ đồng/năm và huy động từ thị trường trái phiếu DN khoảng 230-240 nghìn tỷ đồng/năm. Thứ sáu, vốn tự có và vốn đóng góp của chính DN. Nguồn vốn tự có đang ngày một nhỏ đi so với tổng nguồn vốn của DN. Bình quân giai đoạn 2011-2015, dòng vốn tự có chiếm khoảng 32% tổng nguồn vốn của DN thì đến cuối năm 2018, con số này chỉ vỏn vẹn 27%.
Trên thực tế, lãi suất cho vay của Việt Nam đang giảm mạnh, từ mức khoảng 17% vào năm 2011, đến thời điểm hiện nay lãi suất cho vay bình quân khoảng 8-8,5%. Tuy nhiên, lãi suất cho vay bình quân 5 năm vừa qua, từ năm 2014-2018, ở mức 4,96% sau khi đã cấn trừ đi lạm phát, vẫn cao hơn so với khu vực bởi 4 lý do: Lạm phát của Việt Nam còn cao, khoảng 3%, trong khi bình quân khu vực chỉ 2-2,3%; Mức độ rủi ro của nền kinh tế và DN Việt Nam khá cao dưới con mắt các nhà đầu tư nước ngoài, do đó các nhà đầu tư khi đầu tư vào VN đều yêu cầu tỷ suất sinh lời ở mức 12-15% và được đảm bảo bằng đồng USD; Chi phí giao dịch kinh tế quá lớn đã đẩy chi phí hoạt động của toàn nền kinh tế tăng lên mức cao hơn; Lãi suất huy động đầu vào của Việt Nam không thấp, ở mức 6-7%.
Năm 2019, nhiều DN phát hành trái phiếu rất tốt, khoảng 232 nghìn tỷ đồng. Thế nhưng, để thị trường phát triển lành mạnh, cần minh bạch hơn để nhà đầu tư định lượng được rủi ro khi tham gia đầu tư. Bên cạnh đó, cần có đầu mối quản lý tổng thể, ở đây phải là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, không phải các Sở Kế hoạch và Đầu tư quản lý như Nghị định 163 quy định. Ngoài ra, mặt bằng lãi suất cũng phải được giữ ở mức tương đối phù hợp. Việc nhiều DN phát hành trái phiếu với mặt bằng lãi suất 20% thực sự rủi ro cho cả DN và nền kinh tế. Bởi vì, với lãi suất 20%, DN rất khó khăn để trả nợ trong tương lai. Một điểm nữa, kênh chứng khoán và trái phiếu của DN dù phát triển tốt, nhưng mức độ huy động vốn còn rất thấp so với thông lệ quốc tế. Hiện nay, việc huy động vốn của thị trường chứng khoán chỉ bằng một ngân hàng thương mại cỡ trung bình, khoảng 250-300 nghìn tỷ đồng/năm. Do đó, tới đây cần thúc đẩy mạnh hơn nữa thị trường chứng khoán.
Chú trọng hơn đến thị trường vốn trung và dài hạn
Điểm tích cực trên thị trường vốn, theo các Nghị định mới của Chính phủ, Quỹ phát triển DNNVV từ tháng 7/2019, được độc lập cho DN vay vốn, thay vì hợp tác với ngân hàng để cho DN vay vốn như trước đây. Thêm nữa, Chính phủ cũng ban hành Nghị định mới quy định các địa phương đóng góp vào Quỹ bảo lãnh DNNVV để cho DN vay lại. Sau 15 năm hoạt động không hiệu quả, hiện nay Quỹ bảo lãnh DNNVV đã hoạt động hiệu quả hơn. Một công cụ nữa có thể giúp DN tiếp cận vốn là cho thuê tài chính. DN không cần tài sản đảm bảo, không cần thế chấp. Hiện trên thị trường đang có 12 công ty cho thuê tài chính hoạt động, với dư lượng cho thuê lên tới 90 nghìn tỷ đồng.
Bảo đảm vốn cho đầu tư sản xuất năm 2020, các chuyên gia kinh tế đưa ra nhiều giải pháp, nhấn mạnh sự cần thiết thúc đẩy mạnh hơn các cải cách về thể chế, cũng như phải phát triển tốt hơn, cân bằng hơn thị trường tài chính đang còn khập khiễng. TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, NHNN nên sớm bỏ trần lãi suất, dỡ bỏ những quy định hành chính để thị trường vận động đúng theo cung - cầu.
Hiện quy định trần lãi suất 6-7% đang làm cản trở tín dụng, mang lại rủi ro cao, ngân hàng không muốn cho vay. TS. Cấn Văn Lực cũng nói “đã đến lúc” Chính phủ nên bỏ trần lãi suất để thị trường phát triển minh bạch hơn, giảm cơ chế xin - cho. Với DN, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, phải minh bạch và thiện chí hợp tác hơn, thay đổi quản trị DN và quản trị tài chính; chú trọng liên kết và chủ động để tăng cường khả năng chống chịu với các cú sốc bên ngoài. Khảo sát gần đây cho thấy, chỉ 12% DN quan tâm đến chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và có phương án dự phòng. Dòng vốn vào DN tương đối đa dạng, nhưng ông Lực mong các DN quan tâm hơn đến thị trường vốn trung và dài hạn, gồm cổ phiếu, trái phiếu và các quỹ đầu tư.