Doanh nghiệp hồi phục nhanh sẽ giúp nâng đỡ nền kinh tế

Nguyễn Loan| 20/05/2020 02:46

Sáng 20/5/2020, Trường Đại học Kinh tế-Luật (UEL) và Viện Nghiên cứu phát triển Công nghệ ngân hàng ĐHQG-HCM (VNUHCM-IBT) đồng tổ chức Hội thảo khoa học Lựa chọn chính sách phục hồi kinh tế Việt Nam giai đoạn Covid-19.

Bơm tiền thực tạo nhiên liệu cho doanh nghiệp phục hồi

Hiện, Chính phủ Việt Nam đang thực hiện nhiều chính sách tài khóa như đưa ra gói giảm thuế và tiền thuê đất với 180.000 tỷ đồng (tương đương 3% GDP, 11,7% thu ngân sách, 10,3% chi ngân sách và 88% mức thâm hụt ngân sách); chi 62.000 tỷ đồng tiền mặt cho an sinh xã hội (giảm giá điện trị giá 11.000 tỷ đồng và hoãn đóng bảo hiểm xã hội trị giá 9.500 tỷ đồng)... Tính tổng thể quy mô gói kích thích tài khóa của Việt Nam hiện tương đương 4,3% GDP - xấp xỉ với các nền kinh tế mới nổi khác cũng như so với các quốc gia đang phát triển trong khu vực. 

Theo nghiên cứu của VNUHCM-IBT công bố tại hội thảo, gói kích thích hiện nay của Việt Nam có tác động giới hạn đối với doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính vì các chính sách chỉ làm giảm hoặc ngăn dòng tiền ra của doanh nghiệp, chưa có chính sách hỗ trợ làm tăng dòng tiền vào của doanh nghiệp.

Sẽ có những doanh nghiệp đã phải ngưng hoạt động và có thể phải giải thể hoặc phá sản trước khi cải thiện được dòng tiền, vì vậy chính sách tạo dòng tiền vào cho doanh nghiệp quan trọng hơn và sẽ mang lại hiệu quả hơn. Nói cách khác, phải bơm tiền thực cho doanh nghiệp mới tạo nhiên liệu kích hoạt cỗ máy kinh doanh tái khởi động. 

Đồng thời, các chuyên gia của Trường Đại học Kinh tế-Luật và VNUHCM-IBT cũng cho rằng việc lựa chọn chính sách phục hồi kinh tế cần đặt trong tầm nhìn trung hạn với các giải pháp phi truyền thống, thậm chí khác biệt với các chính sách đã từng được áp dụng trong quá khứ vì bản chất tác động khủng hoảng do Covid-19 khác với các khủng hoảng trong quá khứ.

Theo đó, cần cân nhắc điều chỉnh tăng chỉ tiêu lạm phát 4% của năm 2020 để giúp Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có dư địa đủ lớn cho việc nới lỏng tiền tệ và cắt giảm lãi suất, không chỉ dừng lại ở lãi suất liên ngân hàng mà phải đảm bảo tác động làm hạ thấp mạnh hơn nữa lãi suất cho vay kể cả lãi suất của các món nợ cũ.

Đặt giả thuyết, nếu tình hình Covid-19 kéo dài, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, hoạt động các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề hơn thì trong các quý tới cho vay cá nhân có thể giảm 20-25% và cho vay doanh nghiệp có thể giảm đến 30-40%. Vì vậy, theo các chuyên gia của VNUHCM-IBT, trong thời gian tới, các Ngân hàng thương mại (NHTM) nên ưu tiên chú trọng tái cấu trúc và gia hạn nợ mạnh hơn. 

Doanh-nghie-p-ho-i-phu-c-nhanh-se-giu-p-

Xác định ngành ưu tiên hỗ trợ

Ngoài ra, triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp và tốc độ giải ngân thời gian qua cho thấy mục tiêu tăng trưởng tín dụng 9-14% đã đặt ra cho năm 2020 có thể khó đạt được. Vì vậy, các chuyên gia cho rằng thay vì chỉ đeo đuổi mục tiêu chung của tăng trưởng tín dụng, cần đặt ra mục tiêu hỗ trợ cho các ngành ưu tiên như công nghiệp chế biến - chế tạo xuất khẩu, thương mại, thuỷ sản, nông nghiệp…

Việc xác định ngành ưu tiên hỗ trợ nên dựa trên ít nhất hai yếu tố là tốc độ phục hồi và mức độ ổn định của đầu ra của sản phẩm. Những doanh nghiệp hồi phục nhanh sẽ giúp nâng đỡ nền kinh tế và từ đó tác động lan tỏa để các doanh nghiệp khác phục hồi. Như vậy, chính sách cần có sự tập trung theo nhóm ngành chứ không nên dàn trải, thiếu tập trung. 

Với chính sách tài khoá, phân tích của VNUHCM-IBT cho rằng để giải quyết cuộc khủng hoảng do dại dịch Covid-19 gây ra cần sử dụng công cụ chính là chính sách tài khóa còn chính sách tiền tệ sẽ đóng vai trò hỗ trợ. Việt Nam là nước có độ mở thương mại lớn và có mối tương quan dương với tăng trưởng GDP thế nhưng cho đến thời điểm này hầu hết các đối tác thương mại lớn của Việt Nam vẫn đang còn áp dụng biện pháp phong toả, vì vậy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong ngắn hạn rất cần phải dựa vào nội lực.

Tuy nhiên, nội lực tiêu dùng tư nhân và đầu tư tư nhân đang suy giảm mạnh và sẽ chậm hồi phục do mức độ tổn thương lớn nên tăng trưởng trong thời gian tới phụ thuộc vào chi tiêu công. Để giải quyết bài toán nguồn tài trợ chi tiêu công cần phải dựa trên nguyên tắc tái phân bổ chi tiêu, chuyển nhượng tài sản công, cân nhắc sử dụng giải pháp tiền tệ hóa thâm hụt và vay nợ. 

Từ các phân tích đó, các chuyên gia của VNUHCM-IBT đề xuất các khuyến nghị về chính sách tài khoá ngắn hạn và trung hạn như cho phép hạch toán đầy đủ chi phí lương; nhanh chóng khơi thông khối tiền đầu tư công 700.000 tỷ đồng trong năm 2020 (vốn phát sinh trong năm 2020 khoảng 135.000 tỷ đồng và vốn của kế hoạch các năm trước đây được chuyển nguồn thực hiện ở năm 2020 khoảng 565.000 tỷ đồng); bố trí một khoản mục chi tái thiết kinh tế trong dự toán ngân sách thời kỳ 2021-2026 dưới hình thức "Chi đầu tư phát triển"; phân loại doanh nghiệp hỗ trợ, gắn với an sinh xã hội để đảm bảo người lao động không mất việc làm; giải quyết vấn đề khó tiếp cận vốn cho doanh nghiệp bằng cách thực hiện dịch chuyển rủi ro của chủ nợ về phía Chính phủ thông qua các chương trình bảo lãnh tín dụng giúp khơi thông nguồn vốn đến các doanh nghiệp thuộc đối tượng hỗ trợ; cho phép doanh nghiệp chuyển lỗ về năm trước hoặc năm sau trong hạn định 5 năm nhằm giảm áp lực kinh tế lên doanh nghiệp. Và các giải pháp khác như điều chỉnh kỷ luật tài khóa tổng thể; sử dụng hết mức tối đa theo quy định của Luật ngân sách nhà nước của số dư dự phòng ngân sách nhà nước năm 2020 để đáp ứng các nhu cầu chi. 

(0) Bình luận
Nổi bật
Đọc nhiều
Doanh nghiệp hồi phục nhanh sẽ giúp nâng đỡ nền kinh tế
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO