Đông Nam Á tăng đầu tư vào năng lượng tái tạo
Nhu cầu năng lượng tăng liên tục 20 năm qua đang khiến nhiều nước thuộc Đông Nam Á tăng đầu tư vào năng lượng tái tạo, mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết, Đông Nam Á là khu vực có một số nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, có nhu cầu năng lượng tăng bình quân 3%/năm trong suốt hai thập niên qua và xu hướng này sẽ còn tiếp diễn đến năm 2030, với các chính sách hỗ trợ năng lượng như hiện tại.
Trong bối cảnh đó, nhiều quốc gia Đông Nam Á đang chuyển dần sang năng lượng tái tạo và tăng cường đầu tư, hỗ trợ chính sách nhằm đảm bảo an ninh năng lượng.
Dù vậy, nhiên liệu hóa thạch vẫn sẽ chiếm ưu thế trong cơ cấu năng lượng của Đông Nam Á. Theo nghiên cứu từ Trung tâm Năng lượng ASEAN, tỷ trọng nhiên liệu hóa thạch tại khu vực này năm 2020 đạt khoảng 83%, trong khi năng lượng tái tạo là 14,2%. Đến năm 2050, dầu, khí tự nhiên và than đá được dự báo chiếm 88% tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp.
Zulfikar Yurnaidi - người đứng đầu bộ phận mô hình hóa năng lượng và hoạch định chính sách tại Trung tâm Năng lượng ASEAN cho rằng, “sự phụ thuộc quá lớn” vào nhiên liệu hóa thạch đã làm tăng tính dễ bị tổn thương của Đông Nam Á trước các cú sốc về giá năng lượng và hạn chế về nguồn cung.
Điển hình như đại dịch Covid-19 hay chiến sự Nga và Ukraine, vốn là các sự kiện toàn cầu đã đẩy giá dầu tăng cao trong những năm gần đây, có lúc đạt mức cao nhất trong hơn 10 năm qua vào tháng 3/2022. Gần đây, giá dầu tiếp tục biến động, khi tăng gần 6% do căng thẳng ở Trung Đông giữa Hamas và Israel.
“Năng lực tài chính của chúng ta khác với châu Âu. Chúng ta không thể trả giá cao hơn mọi người để có được nguồn cung khí đốt cho riêng mình”, Yurnaidi nói.
Nhìn chung, các chính sách và xu hướng của khu vực cho thấy các nước đang mong muốn chuyển đổi sang năng lượng sạch.
Zulfikar Yurnaidi - người đứng đầu bộ phận mô hình hóa năng lượng và hoạch định chính sách tại Trung tâm Năng lượng ASEAN
Theo David Thoo - nhà phân tích năng lượng và năng lượng carbon thấp tại BMI Fitch Solutions, ngành năng lượng khí đốt và than đá của Đông Nam Á vốn đã được mở rộng khi nhu cầu năng lượng tăng, ngày càng khiến thị trường khu vực hứng chịu biến động giá nhiên liệu hóa thạch của thị trường quốc tế.
Do đó, nếu không có những phát kiến đáng kể hoặc tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất hiện có, Đông Nam Á sẽ trở thành nhà nhập khẩu ròng khí đốt tự nhiên vào năm 2025 và than đá vào năm 2039 - điều sẽ làm tăng giá nhiên liệu hóa thạch và tăng thêm sức ép cho người tiêu dùng. Để ngăn chặn điều này, khu vực này cần phải đa dạng các nguồn năng lượng để đảm bảo tăng trưởng kinh tế và an ninh.
Bà Helen Mountford - Chủ tịch Quỹ ClimateWorks cho biết, Đông Nam Á là nơi sinh sống của 1/4 dân số thế giới, có vị trí thuận lợi để trở thành khu vực dẫn đầu toàn cầu về sản xuất năng lượng tái tạo với môi trường kinh doanh sôi động và nguồn nhân lực dồi dào. Nếu đạt mục tiêu trên, Đông Nam Á có thể tăng cường cung cấp các giải pháp năng lượng tái tạo đáng tin cậy với giá cả phải chăng cho người dân và cộng đồng ở khu vực và trên toàn thế giới, cũng như tạo ra cơ hội việc làm mới tại địa phương.
Trên thực tế, để nắm bắt cơ hội này, hầu hết quốc gia Đông Nam Á đã có những bước tiến trong việc công bố các mục tiêu năng lượng tái tạo và xây dựng kế hoạch chuyển đổi năng lượng carbon thấp.
Theo Bộ Kinh tế Malaysia, nước này đã triển khai lộ trình chuyển đổi năng lượng quốc gia vào tháng 7 qua, nhằm tăng cường công suất năng lượng tái tạo và giảm sự phụ thuộc ngày một tăng vào khí tự nhiên nhập khẩu. Bộ Kinh tế Malaysia cho biết, lộ trình đã xác định 10 dự án hàng đầu, gồm kế hoạch xây dựng nhà máy quang điện mặt trời với công suất 1GW lớn nhất Đông Nam Á, có thể trực tiếp chuyển đổi ánh sáng mặt trời thành năng lượng.
Theo giới chức Malaysia, năng lượng mặt trời vẫn là phân khúc đáng khích lệ nhất trong lộ trình phát triển năng lượng tái tạo của Malaysia từ năm 2011, với tốc độ tăng trưởng gộp công suất lắp đặt hằng năm đạt 48%. Các kế hoạch phát triển khác gồm một khu năng lượng tái tạo tích hợp, 5 công viên năng lượng mặt trời tập trung quy mô lớn và 3 nhà máy sản xuất hydro xanh. Các dự án này sẽ tận dụng tiềm năng năng lượng tái tạo kỹ thuật ước tính 290GW của Malaysia để tạo ra một hệ thống năng lượng ít carbon và linh hoạt hơn.
Tại Singapore, “kế hoạch xanh” năm 2023 của nước này nhấn mạnh đến việc sử dụng năng lượng tái tạo. Theo đại diện Bộ Bền vững và Môi trường, mục tiêu của đảo quốc sư tử là tăng cường triển khai năng lượng mặt trời lên công suất ít nhất 2GW vào năm 2030, đáp ứng khoảng 3% nhu cầu điện dự kiến.
Bất chấp các hạn chế về địa lý của Singapore gây ra nhiều trở ngại trong việc lựa chọn năng lượng tái tạo, “kế hoạch xanh” sẽ triển khai nhiều biện pháp như lắp pin mặt trời trên mái nhà cũng như nhập khẩu điện và hydro từ các nước Đông Nam Á khác để giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch.
Năm ngoái, Keppel Electric của Singapore đã ký thỏa thuận hai năm với Lào để nhập khẩu 100MW thủy điện tái tạo qua Thái Lan và Malaysia. Điều này đánh dấu lần nhập khẩu năng lượng tái tạo đầu tiên của Singapore cũng như thương mại điện xuyên biên giới đa phương đầu tiên có sự tham gia của 4 thành viên ASEAN.
Ở Philippines, theo công ty luật quốc tế Baker McKenzie, Philippines vào tháng 11 năm ngoái đã loại bỏ các yêu cầu về quyền sở hữu của nước này với một số nguồn năng lượng tái tạo, cho phép nhà đầu tư nước ngoài sở hữu hoàn toàn các dự án liên quan đến tài nguyên năng lượng mặt trời, gió, thủy điện hoặc đại dương. Trước đây, các công ty nước ngoài chỉ có thể sở hữu tối đa 40% cổ phần tại các dự án năng lượng như vậy.
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), quyền sở hữu nước ngoài rất cần thiết trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án sản xuất năng lượng gió tái tạo ở Philippines, vốn sở hữu tiềm năng lắp đặt 21GW điện gió ngoài khơi vào năm 2040. Báo cáo của WB cho biết, con số này tương đương 20% nguồn cung điện của Philippines.
WB cũng cho rằng, Philippines phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu, khiến nước này có nguy cơ bị hạn chế về nguồn cung và tăng giá. Song các công ty nước ngoài, với kiến thức và kinh nghiệm của họ, có thể giúp giải quyết vấn đề này, nhất là trong việc giúp các dự án năng lượng tái tạo chuyển từ giai đoạn tiền phát triển sang giai đoạn sau, vốn đòi hỏi chi phí cao hơn.
Tại Indonesia, hiện chính phủ nước này cũng đã nới lỏng một số hạn chế về sở hữu nước ngoài để tạo động lực đầu tư cho năng lượng tái tạo. Ví dụ như việc cho phép 100% sở hữu nước ngoài trong các dự án truyền tải, phân phối điện và sản xuất điện (có công suất trên 1MW), theo Tạp chí Luật Kinh doanh châu Á. “Chúng tôi lạc quan rằng sẽ có nhiều khoản đầu tư nước ngoài đổ vào trong vài năm tới, dẫn đến nhiều dự án năng lượng tái tạo hơn trong khu vực”, Yurnaidi nhận định.
Tại Việt Nam, vào tháng 5/2023, Chính phủ đã công bố Quy hoạch Điện VIII, ưu tiên tăng cường năng lượng gió và khí đốt cũng như giảm phụ thuộc vào than. Theo đó, các nguồn năng lượng tái tạo như gió và mặt trời dự kiến sẽ chiếm ít nhất khoảng 31% nhu cầu năng lượng quốc gia vào năm 2030, đồng thời tất cả nhà máy than phải được chuyển sang nhiên liệu thay thế và đến năm 2050 không còn sử dụng than cho sản xuất điện. Bên cạnh đó, tỷ trọng nhiệt điện than trong cơ cấu nguồn sẽ giảm từ gần 29% năm 2020 xuống 20,5% năm 2030.