Vai trò kinh tế tư nhân TP.HCM với mô hình phát triển bền vững

Lê Thị Anh Tuyết- Trần Huy Hoàng| 28/04/2019 06:19

Lời Tòa soạn : Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nội dung phác thảo một số vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước sau khi hòa bình, thống nhất. Người yêu cầu, Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, đặc biệt chú trọng phát huy khả năng sáng tạo của dân, động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.

Vai trò kinh tế tư nhân TP.HCM với mô hình phát triển bền vững

Khu vực kinh tế tư nhân ngày nay được Đảng và Nhà nước đánh giá là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhân dịp kỷ niệm 44 năm ngày thống nhất đất nước và 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo Doanh Nhân Sài Gòn giới thiệu bài viết sau đây phần nào chỉ ra cụ thể vai trò và con đường phát triển của khu vực kinh tế tư nhân tại TP.HCM.

Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế

KTTN là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm các doanh nghiệp (DN) trong và ngoài nước, trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư. Hiểu ở cấp độ hẹp, KTTN là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở hữu tư nhân, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. KTTN tồn tại dưới các hình thức DNTN, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và hộ kinh doanh.

Kể từ khi đổi mới đến nay, thể chế đối với KTTN của nước ta đã có những bước phát triển rõ rệt. Đáng chú ý nhất là sự thay đổi quan điểm về vai trò KTTN trong các văn kiện của Đảng. Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa XII) về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khẳng định: "Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với KTTN là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ”. Vai trò của KTTN được nâng lên là nòng cốt của nền kinh tế, bên cạnh kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, thay vì chỉ là một trong những động lực của nền kinh tế như trước đây. 

kinh-te-tu-nhan-0211-1127-1556443160.jpg

Để hỗ trợ KTTN, Thành phố đặc biệt chú trọng đến việc tạo môi trường thuận lợi về thể chế, chính sách. Nhiều chương trình được ban hành, như chương trình cải cách thủ tục hành chính liên quan đến đăng ký kinh doanh, chương trình kích cầu đầu tư, hỗ trợ phát triển khoa học - công nghệ, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ tiếp cận tín dụng, kết nối ngân hàng - doanh nghiệp, hỗ trợ thuế, kế toán, hải quan, mặt bằng sản xuất, thị trường, thông tin pháp lý, hỗ trợ đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế, hỗ trợ khởi nghiệp... 

Theo thống kê, hiện nay TP.HCM có hơn 300.000 DNTN. Thành phố đang đặt mục tiêu phấn đấu có khoảng 500.000 DN đến năm 2020, trong đó những DN quy mô lớn và khu vực KTTN sẽ đóng góp khoảng 65% GDP, 64% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, năng suất lao động tăng 6,5%/năm, hằng năm có từ 30 đến 35% số DN có đổi mới sáng tạo. Theo UBND TP.HCM, tỷ trọng KTTN trong tổng cơ cấu kinh tế Thành phố giai đoạn 2006 - 2010 trung bình đạt 50,6%, đến năm 2016 đạt 58,83%, tỷ trọng đóng góp vào ngân sách của KTTN trong tổng thu các khu vực kinh tế tăng từ 30% trong năm 2006 lên 34% trong năm 2016. Theo số liệu từ Viện Nghiên cứu Phát triển TP.HCM, giai đoạn 2011-2015, vốn đầu tư từ thành phần kinh tế ngoài nhà nước chiếm khoảng 61% tổng vốn đầu tư cả giai đoạn, thành phần kinh tế nhà nước chiếm 21% và thành phần kinh tế có vốn nước ngoài chiếm 18%. Thông qua số liệu thống kê, có thể khẳng định khu vực KTTN đang ngày càng thể hiện vai trò là động lực trong phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng thu ngân sách.

Khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của TP.HCM, cả về đóng góp GDP, vốn đầu tư, cả về tạo việc làm... Tuy vậy, hiện nay hầu hết doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, điều kiện tiếp cận các nguồn lực phục vụ sản xuất, kinh doanh còn nhiều rào cản, môi trường kinh doanh chưa thuận lợi. Trên cơ sở đánh giá thực trạng KTTN, mà trọng tâm là khu vực DNTN, bài viết này đưa ra một số khuyến nghị về chính sách để phát triển KTTN theo mô hình sinh thái bền vững ở TP.HCM

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó thì khu vực KTTN tại TP.HCM đang gặp rất nhiều khó khăn và bộc lộ những mặt yếu kém. DNTN chủ yếu là DN nhỏ và vừa (chiếm gần 99%), trong đó DN siêu nhỏ (vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng) chiếm hơn 89%. Số DN tham gia đầu tư, sản xuất không nhiều, chủ yếu là kinh doanh thương mại, sửa chữa nhỏ. Cùng với đó, trình độ công nghệ thấp, chậm đổi mới, năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh thấp, trình độ quản trị, tính liên kết không cao, khả năng

tham gia chuỗi giá trị trong nước và quốc tế thấp, cho nên khả năng cạnh tranh còn yếu, việc tiếp cận các chính sách ưu đãi của Thành phố còn chậm, khó cạnh tranh với doanh nghiệp FDI...

Bảo vệ môi trường 

Theo Sở Tài nguyên và Môi trường TP.HCM, hiện Thành phố bị ảnh hưởng không nhỏ bởi những tác động từ môi trường. Cụ thể, hằng ngày, có gần 1,8 triệu m³ nước thải sinh hoạt thải ra môi trường, khoảng 839 nguồn thải công nghiệp, khoảng 8.300 tấn chất thải rắn sinh hoạt/ngày, khoảng 1.200 đến 1.600 tấn chất thải rắn từ xây dựng/ngày. Bên cạnh đó, Thành phố đang phải tiếp nhận trên dưới 3.000m³/ngày lượng bùn thải phát sinh từ các trạm và nhà máy xử lý nước, nước thải, hơn 2.000 nhà máy công suất lớn cùng khoảng 10.000 cơ sở sản xuất vừa và nhỏ thải ra 1.500 đến 2.000 tấn chất thải công nghiệp/ngày, trong đó chất nguy hại khoảng 350 đến 400 tấn. TP.HCM có 1,9 triệu hộ gia đình, hằng ngày thải ra môi trường gần 3.500 tấn rác, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, thương mại, dịch vụ có hơn 134.000 nguồn thải, với gần 3.400 tấn rác/ngày. Riêng khối lượng chất thải y tế nguy hại có khoảng 22 tấn/ngày, chủ yếu phát sinh từ hơn 6.000 cơ sở y tế công lập và tư nhân. Nước thải sinh hoạt ở hầu hết các đô thị, khu dân cư chưa được xử lý, rác thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp chưa được quản lý tốt, diện tích các hệ sinh thái tự nhiên giảm mạnh, đa dạng sinh học tiếp tục bị suy thoái nhanh.

Những hệ quả về ô nhiễm môi trường đặt ra rất nhiều thách thức trong việc thực hiện định hướng tăng trưởng xanh. Hiện nay, các nguồn lực chính cho BVMT chủ yếu dựa vào nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Việc tăng cường đầu tư của Nhà nước cho BVMT đã có những chuyển biến, song vẫn còn hạn chế chưa thể giải quyết triệt để các vấn đề môi trường bức xúc hiện nay. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số vấn đề trong phân bổ và sử dụng nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho BVMT, như chưa có ràng buộc, ưu tiên, bố trí chi từ nguồn đầu tư phát triển.

Từ những thực trạng nêu trên đặt ra thách thức lớn cho việc thực hiện thành công chiến lược về tăng trưởng xanh của TP.HCM.

Xây dựng chế độ dân chủ gắn với hoạt động của nhà nước pháp quyền

Trong những năm qua, đội ngũ doanh nhân TP.HCM ngày càng lớn mạnh, có khát vọng vươn lên làm giàu chính đáng, không ngừng nâng cao năng lực kinh doanh và quản trị DN. Trách nhiệm xã hội, đạo đức, văn hóa kinh doanh của doanh nhân dần được nâng lên. Mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức Đảng và phát triển Đảng trong khu vực KTTN được các cấp ủy Đảng quan tâm đổi mới, hoàn thiện, đảng viên được làm KTTN và nhiều chủ DNTN được kết nạp vào Đảng. Việc giám sát, phản biện chính sách, vai trò tổ chức đại diện bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động và người sử dụng lao động được quan tâm đổi mới.

Tuy vậy, hiện tượng vi phạm pháp luật và cạnh tranh không lành mạnh trong khu vực KTTN tại TP.HCM còn khá phổ biến. Tình trạng sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường, không bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, gian lận thương mại diễn ra nghiêm trọng, phức tạp. Nhiều DNTN không bảo đảm lợi ích của người lao động, nợ bảo hiểm xã hội, báo cáo tài chính không trung thực, trốn thuế và nợ thuế kéo dài. Xuất hiện những quan hệ không lành mạnh giữa một số DNTN và công chức, can thiệp vào quá trình xây dựng, thực thi chính sách để có đặc quyền, đặc lợi, hình thành lợi ích nhóm. Thể chế về phát triển DN, doanh nhân còn nhiều bất cập. Công tác phổ biến, quán triệt và tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển KTTN chưa được thực hiện thường xuyên, đầy đủ, sâu rộng. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KTTN, nhất là hạ tầng giao thông và nguồn nhân lực. 

Nguyên nhân của những  hạn chế

Thứ nhất, môi trường pháp lý đối với khu vực KTTN chưa hoàn thiện, nhiều quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, thiếu nhất quán, phức tạp và chồng chéo. Điều kiện thủ tục hành chính, thủ tục tiếp cận đất đai, thị trường tín dụng, cơ hội đầu tư rườm rà. Chi phí kinh doanh, chi phí vận tải (tiền lương, bảo hiểm, logistics...) cao. Lãi suất vay cao, khoảng 7 - 9%/năm (trong khi Trung Quốc là 4,3%, Malaysia 4,6%, Hàn Quốc 2 - 3%). Với hơn 5.000 điều kiện kinh doanh đã đặt ra các rào cản đối với sự phát triển của KTTN, trong khi có thể cắt giảm càng sớm càng tốt đến hơn 50% các điều kiện không hợp lý này. Điều mà các DNTN cần không phải là sự hỗ trợ, ưu đãi đặc biệt mà là hệ thống pháp luật về kinh doanh minh bạch, công bằng và lành mạnh, thủ tục hành chính đơn giản, thuận tiện.

Thứ hai, chính sách thuế quá nhiều bất cập và có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và DNTN. Một số chính sách quy định chỉ đề cập đến DNNN mà chưa đề cập đến DNTN. Thủ tục hành chính thiếu minh bạch và thiếu cơ chế trách nhiệm giải trình. Nhiều DN phải trả chi phí "không chính thức" để giải quyết công việc… 

Thứ ba, thiếu thị trường, thiếu mặt bằng sản xuất, kinh doanh là trở ngại lớn nhất đối với DNTN.

Thứ tư, hiệu quả thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để phát triển KTTN chưa cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KTTN, đặc biệt là hạ tầng giao thông và nguồn nhân lực. Thiếu vốn luôn là vấn đề thách thức lớn đối với DNTN khi không có tài sản thế chấp để vay vốn hoặc tài sản thế chấp không minh bạch, đang tranh chấp, thiếu dự án khả thi. 

Thứ năm, khu vực KTTN thiếu hụt lao động có kỹ năng, năng suất lao động còn thấp. Cách thức quản trị hiện nay của nhiều DN còn theo kiểu gia đình, ít tiếp cận quản trị hiện đại, thông lệ quốc tế. Tình trạng DN thành công dựa vào quan hệ không lành mạnh với giới hoạch định chính sách, khai thác lợi thế đất đai, tài nguyên ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. 

Thứ sáu, nhiều DNTN không có đủ năng lực tài chính để đầu tư vào tài sản cố định, công nghệ để giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động. Tài sản cố định bình quân của một DNTN nhỏ chỉ duy trì ở mức  8 tỷ đồng/DN và không có cải thiện đáng kể trong suốt giai đoạn 2011 - 2015.

Thứ bảy, việc tiếp cận tín dụng của DNTN còn nhiều khó khăn. Chỉ có 40% trong tổng số DN đang hoạt động có khả năng tiếp cận vốn vay từ ngân hàng. Nhiều DN khó đáp ứng quy định cho vay của các tổ chức tín dụng do chưa minh bạch về tình hình tài chính.

Thứ tám, khả năng tiếp cận đất đai hạn chế. Thủ tục giải phóng mặt bằng, thu hồi đất tốn thời gian. Phương pháp tính giá đất, thủ tục cấp phép, thông tin quy hoạch còn gây nhiều bức xúc, cản trở tốc độ thu hồi và bàn giao đất sạch cho các nhà đầu tư. Giá cho thuê đất cao cũng hạn chế khả năng tiếp cận mặt bằng sản xuất, kinh doanh của nhiều DNTN.

Gợi ý chính sách

Một là, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh an toàn, ít rủi ro, bảo đảm hoạt động của KTTN cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng theo cơ chế thị trường. Khuyến khích thành lập DN, phát triển sản xuất, kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực, địa bàn mà pháp luật không cấm, tạo điều kiện cho hộ gia đình, cá thể kinh doanh với quy mô ngày càng lớn và chuyển đổi sang mô hình công ty. Thành phố rà soát, xóa bỏ các cơ chế, chính sách tạo ra bất bình đẳng giữa KTTN và các thành phần kinh tế khác, giữa các chủ thể của KTTN, nhất là trong cạnh tranh và tiếp cận nguồn lực xã hội, các yếu tố sản xuất, cơ hội kinh doanh, tham gia thị trường, mà trọng tâm là đất đai, vốn, nguồn lực của Nhà nước.

Hai là, rà soát, đơn giản hóa và bãi bỏ các thủ tục hành chính không cần thiết, tạo mọi thuận lợi và giảm tối đa thời gian, chi phí cho DN và người dân, như thực hiện thủ tục thành lập doanh nghiệp đăng ký tại nhà, xây dựng cơ chế "một cửa điện tử" thống nhất đầu mối tiếp nhận và xử lý hồ sơ, hướng dẫn, giải quyết thủ tục hành chính, trong đó tập trung cải thiện việc tiếp cận các yếu tố đầu vào cho sản xuất kinh doanh, giảm thời gian, chi phí cho các thủ tục về thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, xây dựng, đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản... Đề cao trách nhiệm công vụ của công chức trong việc tiếp nhận, xử lý, phản ánh kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính. Xử lý nghiêm những cá nhân, cơ quan, đơn vị tùy tiện quy định những thủ tục gây khó khăn, phiền hà cho người dân và DN. Bố trí công chức - viên chức có đủ năng lực và có phẩm chất tốt làm việc tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả xử lý hồ sơ. Thực hiện hiệu quả nội dung "Bốn xin" (xin chào, xin cám ơn, xin lỗi và xin phép) và "Bốn biết" (biết chào, biết cười, biết quan tâm và biết chia sẻ) trong công tác tiếp dân.

Ba là, ưu tiên hỗ trợ KTTN tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, thủ tục thuế, hải quan, mặt bằng sản xuất, kinh doanh, hiện đại hóa công nghệ, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, mở rộng thị trường, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Hỗ trợ DNTN đầu tư vào nghiên cứu phát triển, ưu tiên hỗ trợ DN khởi nghiệp, nhất là khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của sinh viên, thanh niên, khuyến khích thành lập DN hướng vào sản xuất các thiết bị đầu cuối để phục vụ xây dựng đô thị thông minh. Mặt khác, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp cần hỗ trợ, hợp tác chặt chẽ hơn nữa với khu vực KTTN, nhất là trong việc chống buôn lậu, gian lận thương mại; đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam.

Bốn là, thống nhất nhận thức về phát triển KTTN cho mọi cấp ủy Đảng, chính quyền và người dân Thành phố. Các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp cần tổ chức tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 Khóa XII về phát triển KTTN, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực, nhất là phòng, chống biểu hiện của "chủ nghĩa tư bản thân hữu", quan hệ "lợi ích nhóm", thao túng chính sách, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đọc nhiều
Vai trò kinh tế tư nhân TP.HCM với mô hình phát triển bền vững
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO