Khói buồn làng than

GIA LY - DJUANG YÊN| 18/04/2014 08:03

Thời gian gần đây, nhu cầu dùng than nhiều hơn nên người dân ở thôn 6, xã Ea Bar (huyện Buôn Đôn, Dắk Lắk) phá rừng, hầm than để bán càng rầm rộ.

Khói buồn làng than

Thời gian gần đây, nhu cầu dùng than nhiều hơn nên người dân ở thôn 6, xã Ea Bar (huyện Buôn Đôn, Dắk Lắk) phá rừng, hầm than để bán càng rầm rộ. Trong khi đó, chính quyền địa phương cũng như các ngành chức năng vẫn chưa tìm ra giải pháp ngăn chặn hiệu quả.

Đọc E-paper

Khói bụi từ việc đốt than ảnh hưởng tới sức khỏe người dân

Tiền hầm than mang đi chữa bệnh

Chỉ cần đi gần tới thôn 6, cái mùi nồng nồng, khét khét khó chịu đã bủa vây bầu không khí. Mang tiếng ở cạnh rừng, nhưng không lúc nào người dân thôn 6 có được không khí trong lành để thở. Khuôn mặt ai cũng lấm lem tro than và mồ hôi nhễ nhại. Quanh những ngôi nhà nghèo khó là những lò than.

Mỗi lò than có chiều sâu khoảng 1,2 mét, rộng và dài 2 mét, chứa được khoảng 2 mét khối gỗ. Bên những lò than đang âm ỉ cháy là những khúc gỗ to, gỗ nhỏ dài chừng 1 mét nằm la liệt chờ đốt.

Anh Hùng, một người làm than nơi đây, cho biết: "Đốt than thì phải phá rừng, lúc rộ lên, lúc tạm lắng. Hiện than hoa đang có giá nên càng nhiều người vào rừng lấy gỗ. Người dân chúng tôi vẫn biết việc chặt phá rừng không chỉ ảnh hưởng đến hệ sinh thái, môi trường mà còn ảnh hưởng đến nguồn cung ứng nước tưới tiêu cho ruộng đồng của bà con phía dưới, nhưng...".

Anh bỏ lửng câu nói, quệt mồ hôi chảy tràn trên mặt. Khói từ những lò than nghi ngút phủ cả một thôn dài. Ngoài những lò than của các hộ gia đình thì khoảng đất trống giữa làng có một khu đốt than tập trung, không khí làm việc ở đây nhộn nhịp, có cả thanh niên, người già lẫn con nít.

Hầu như nhà nào cũng có những đống gỗ bằng lăng, ngành ngạnh, cà chít - toàn gỗ quý - để hầm than. Số gỗ này mua từ dân làng Củi bên cạnh. Dân làng Củi từ lâu nổi danh góp phần làm diện tích rừng Buôn Đôn ngày càng bị thu hẹp. Nhưng làm sao số gỗ ấy lọt được qua hàng rào kiểm lâm để đến điểm tập kết cho làng than?

Ngày ngày vài chục xe máy cày từ làng Củi chạy vào rừng. Chẳng biết họ "làm phép" thế nào mà những chuyến xe chở đầy ắp gỗ rừng ấy luôn về đích trót lọt. Lấy gỗ đốt than mà không "lại quả” thì bị bắt, nhưng gỗ đã thành than rồi thì chẳng ai bắt, nên than vận chuyển đi khắp nơi một cách dễ dàng.

Người dân thôn 6 hằng ngày phải hứng chịu những tác hại từ khói than độc hại, nhiều người đã bị bệnh đường hô hấp. Như gia đình ông Hai Qua, có tới 9 đứa con thì cả 9 đều thất học, lại bệnh tật liên miên vì ngày ngày hít phải khói và bụi than.

Ông Hai Qua cười buồn, nói: "Ở cái thôn nghèo xác xơ này ai cũng như ai, nhà nào cũng cày cục mới có đủ hai bữa cơm. Chỉ cần ngơi tay một ngày là ăn cháo, lò than bị phá thì độn sắn độn khoai qua bữa. Con tui 9 đứa có đứa nào được đi học đâu! Tiền cho thuê đất, tiền hầm than mỗi tháng mua thuốc men cho sắp nhỏ cũng vừa hết".

Cha con ông Bảy Nhơn bên một hầm than

"Dẹp đi thì lấy gì mà sống?"

Những năm gần đây, thôn 6 thường xuyên được nhắc đến như một điểm phá rừng cần sớm dẹp bỏ của huyện Buôn Đôn. Nhưng làng có hơn 1.200 con người đều không việc làm, ngoại trừ cái nghề này, nếu dẹp thì lấy gì để sống?

Có dạo, việc khai thác gỗ hầm than diễn ra mạnh quá, chính quyền địa phương phải huy động lực lượng liên ngành đến phá hủy những lò than, thu giữ gỗ. Nhưng chỉ vài ngày sau, người dân lại tiếp tục hầm than.

Trong quán nước gần như là duy nhất trong làng, cũng là quán bán chuối chiên, cái nghề khác lạ ở thôn 6 của gia đình ông Bảy Nhơn, vợ ông Bảy Nhơn cười ngượng nghịu khi tôi hỏi chuyện: "Cả nhà tôi đều hầm than. Tôi yếu sức nên mới dựng cái chòi này bán quà vặt, mỗi ngày kiếm được 20 ngàn đồng là nhiều".

Vợ ông Bảy Nhơn tưởng chúng tôi là người của chính quyền đi dò xét việc phá rừng lấy gỗ hầm than nên nói như năn nỉ: "Mỗi lò than mất khoảng 3 triệu đồng mua gỗ. Trung bình mỗi hầm than đất trong 3 - 4 ngày thu được vài chục bao, bán được 300 ngàn đồng. Có hầm than mới có tiền sinh sống.

Nhưng chính quyền phá xèo một cái là thôi rồi. Mỗi năm phá dăm ba bận thì chúng tôi khá chi nổi. Có nhà lâm vào đường cùng, phải dắt díu nhau đi nơi khác làm thuê làm mướn. Cả làng có hơn 200 hộ, thì cũng chừng ấy hộ làm than. Mấy chú thương tình, cơm áo bà con trông chờ hết vô đó!".

Gỗ được đưa về hầm than

Tôi lặng người trước sự thở than của bà Bảy Nhơn. Gia đình bà có 7 thành viên. Hai vợ chồng chắt chiu lo cho mấy đứa con đủ ăn đã là may, chuyện học chữ thì quá xa xỉ.

Hai năm trước, đứa con đầu của vợ chồng Bảy Nhơn lên thành phố xin việc làm, nhưng người nhỏ bé, đen đủi, lại không biết chữ nên chẳng ai nhận. Một tuần sau lại thất thểu về nhà. Gia đình dỡ chái bếp ra làm cái quán cho người mẹ bán chuối chiên, còn mấy cha con vẫn vùi mặt vào gỗ, vào than mà sống qua ngày. Có nhiều lần lò đỏ lửa, cơ quan chức năng về bắt phá bỏ, phá rồi lại làm lại.

Gia đình chị Tình còn khó khăn hơn nhà bà Bảy Nhơn. Chồng chị mấy năm nay phải nằm một chỗ vì đi rừng đốn gỗ hầm than bị cây đè mang thương tật. Chồng không làm được thì vợ làm. Chị cùng mấy đứa con ngày nào cũng cắm mặt vào đống than.

Những lần bị phá lò, tủi cực quá chị muốn bỏ cái nghề vừa cơ cực vừa phạm pháp này. Nhưng cả nhà chỉ có mỗi mảnh đất bé tẹo đủ cất căn nhà nhỏ, ngay cả miếng đất để làm lò hầm than chị cũng phải thuê với giá 50 ngàn đồng thì tiền đâu làm nghề khác!

Cũng như những người sống bằng nghề hầm than ở đây, ông Bảy Nhơn, ông Hai Qua, chị Tình đều ý thức được một khi rừng không còn thì nghề cũng hết đất sống. Cấm phá rừng thì đúng lắm. Ai sống trong cái làng này cũng mong dẹp quách nghề hầm than để trẻ con, người già bớt bệnh tật. Nhưng bỏ nghề này thì biết làm nghề gì?

Thành thử mỗi lần bị phá lò, họ lại đôn đáo vay mượn tiền để làm lại. Cả làng chỉ có cậu con út của ông Bảy Nhơn đi học, có giấy chứng nhận con nhà nghèo nên được miễn học phí, nhưng ngày ngày cậu bé phải dậy từ 5 giờ sáng để giúp gia đình hầm tham rồi mới đến lớp.

Nhiều lúc ông Bảy Nhơn cao hứng mơ tưởng tới ngày con mình được vào đại học, nhưng chỉ cần một lần bị phá lò, cậu bé lại phải ở nhà để đi làm cùng gia đình trả nợ, hết nợ mới đi học tiếp, nên mấy năm vẫn ì ạch ở tiểu học. Nhưng thế cũng đã là "người có chữ" của làng rồi. Còn lũ trẻ khác, đó là ao ước mà không biết bao giờ thực hiện được.

Muốn dứt nạn phá rừng hầm than của hơn 200 gia đình thôn 6 thì dân phải kiếm được việc làm khác. Nhưng thôn chỉ có 20 hécta vừa đất ở vừa đất sản xuất, dân thì không có vốn, biết làm gì để sống? Chính quyền xã cũng đã nhiều lần kiến nghị lên trên, rồi trên kiến nghị lên trên nữa, rồi đợi...

Mà đợi đến bao giờ thì không ai biết. Chấm dứt nạn phá rừng lấy gỗ hầm than là đúng, nhưng phận đời của những con người lầm lũi với than sẽ ra sao? Liệu tới đây, hơn 200 hộ dân làng than này có tìm được cơ hội mưu sinh mới hay lại tiếp tục công việc ấy?

(0) Bình luận
Nổi bật
Đọc nhiều
Khói buồn làng than
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO