Một container trở nên “thông minh” khi được gắn thiết bị viễn thông cung cấp khả năng theo dõi và giám sát thời gian thực, cho phép người vận hành tăng thời gian rẽ và cải thiện tính khả dụng của thiết bị. Nó cũng cho phép các chủ sở hữu hàng hóa có lợi (BCO) hiểu được vị trí và trạng thái của hàng hóa để có tầm nhìn sâu hơn vào chuỗi cung ứng.
Theo phân tích của công ty tư vấn vận tải biển toàn cầu Drewry, số lượng container “thông minh” trong đội tàu toàn cầu sẽ bùng nổ trong những năm tới, khi các nhà khai thác và chủ hàng tìm cách tăng khả năng vận chuyển hàng hóa trong bối cảnh chuỗi cung ứng bị gián đoạn và tắc nghẽn. Sự tăng trưởng chủ yếu sẽ được thúc đẩy bởi việc áp dụng rộng rãi công nghệ trên toàn bộ đội tàu container chở hàng khô.
Các container thông minh ngày càng nổi bật sau khi đại dịch Covid-19 bùng phát và dẫn đến sự gián đoạn chuỗi cung ứng, điều này làm nổi bật nhu cầu về khả năng vận tải hàng hóa tốt hơn để đối phó với thời gian vận chuyển dài hơn và biến động hơn. Tốc độ áp dụng dự kiến sẽ tăng nhanh trong những năm tới.
Có một số yếu tố thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường này. Cụ thể, sự gián đoạn chuỗi cung ứng liên tục và tắc nghẽn cảng, mà hiện không có dấu hiệu giảm bớt, đang thúc đẩy nhu cầu cải thiện tầm nhìn về luồng hàng hóa và quản lý đội tàu container. Các nhà cung cấp dịch vụ vận tải cũng đang “rủng rỉnh tiền mặt để đầu tư” và nhìn thấy các cơ hội để cải thiện hiệu quả hoạt động của họ thông qua việc triển khai các container thông minh.
Drewry ước tính đến cuối năm 2021, khoảng 3,6% đội tàu thiết bị container toàn cầu được trang bị các thiết bị công nghệ thông minh, tăng trưởng 30% so với năm trước. Tuy nhiên, công nghệ cho đến nay chủ yếu được dành cho các container lạnh và đa phương thức, trong đó các container thông minh đại diện cho khoảng một phần ba và 40% đội tàu toàn cầu tương ứng. Nhưng nhìn vào các container chở hàng khô, chỉ 0,3% đội tàu toàn cầu hiện được xem là “thông minh”.
Drewry dự báo rằng, số lượng container thông minh trong đội tàu toàn cầu sẽ tăng nhanh chóng và đạt hơn 8,7 triệu chiếc vào năm 2026, chiếm 25% lượng hàng tồn kho trên toàn thế giới. Drewry cho biết, các sáng kiến trước đây để phát triển đội tàu thông minh đã thất bại vì chúng dựa trên nhu cầu BCO vốn bị cản trở bởi các khoản phí bổ sung và thiếu tích hợp vào các dịch vụ Internet vạn vật của nhà cung cấp dịch vụ.
Tuy nhiên, với sự tiến bộ của công nghệ làm giảm giá thành của các thiết bị và nâng cao giá trị của chúng đối với cả các nhà khai thác vận tải và BCO, sự hấp thụ dự kiến sẽ tăng nhanh. Hơn nữa, việc số hóa các đội tàu container sẽ cho phép các hãng vận tải kiểm soát tốt hơn các luồng thông tin chuỗi cung ứng hàng hải, nâng cao khả năng cung cấp khả năng sẵn có hàng hóa và để gắn kết các khách hàng của BCO vào các cam kết hợp đồng dài hạn hơn. Họ phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các giải pháp theo dõi thay thế như thiết bị di động hoặc các công cụ phân tích dự đoán.
Nhưng để đạt được bước thay đổi này sẽ cần đầu tư hơn nữa để tích hợp các container thông minh vào hệ thống Internet vạn vật của nhà mạng và sự hợp tác giữa các bên liên quan trong ngành để cho phép chia sẻ dữ liệu, đặc biệt là giữa liên minh nhà cung cấp dịch vụ và các đối tác.
Trong thời gian chờ đợi, tập trung của các hãng tàu sẽ là xây dựng khối lượng lớn các cài đặt thiết bị thông minh quan trọng để tận dụng lợi ích hoạt động trên các đội tàu container và hoạt động vận chuyển hàng hóa, đồng thời sẵn sàng cho bước thay đổi tiếp theo trong các dịch vụ cung cấp khả năng thể hiện chuỗi cung ứng.