Được gặp anh chị Tám khi trở lại căn cứ Trung ương Cục lần này, thật là may mắn cho tôi. Anh chị Tám vốn là thanh niên xung phong được chuyển về phục vụ các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục, chị làm y tá, anh làm bảo vệ, suốt 10 năm bám trụ chiến khu, suốt 10 năm chớm nở tình yêu và hạnh phúc vợ chồng anh chị trên đất rừng Tây Ninh.
Đọc E-paper
Từ hòa bình đến nay, anh chị Tám đưa nhau về làm ăn ở Gò Công - một làng đánh cá dựng ngay mé biển Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Tôi tưởng anh chị Tám quên rừng rồi, ai dè đường sá xa xôi cách trở, vừa đò máy, xe đò, đi bộ mà anh chị Tám vẫn lặn lội lên đây thăm lại căn cứ xưa. Tôi hỏi anh chị Tám, thật vô tình:
- Cái gì thôi thúc anh chị trở lại Tân Biên?
Anh chị Tám nhìn nhau rồi nhìn tôi, ngạc nhiên với câu hỏi của người từng quen thân anh chị trong chiến tranh. Lâu lắm, chị Tám mới hỏi lại tôi:
- Chớ cậu Út có ơn rừng không?
Câu hỏi của chị Tám làm tôi giật mình. Hồi anh chị Tám yêu nhau, cũng là thanh niên xung phong nhưng khác đơn vị, nên, như anh Tám nói, là “trầy vi tróc vảy” mới nên vợ thành chồng, bởi tổ chức bên chị Tám bắt anh Tám phải về quê xác định lý lịch để xem có đủ tiêu chuẩn tìm hiểu nhân viên của mình. Anh Tám chửi thề một câu, từ chối.
Mà không từ chối cũng không được, bởi hình như họ quên đất nước đang chiến tranh, từ bắc Tây Ninh xuống Cà Mau, nếu theo đường giao liên vũ trang phải mất hằng tháng, có khi hơn, đi “hợp pháp”, tức qua những vùng đối phương kiểm soát thì bị bắt, bị giết là khó tránh khỏi, đó là chưa nói chính quyền cách mạng ở quê hương là những nông dân ngày phải trốn tránh trong rừng đước, đêm, nếu được cơ sở bí mật báo không có địch mới vào được nhà dân!
Chắc cái chuyện phải có lý lịch do địa phương xác nhận mới được yêu ấy đã để lại cho anh chị Tám một kỷ niệm ngồ ngộ mà chuyến hành hương này hẳn anh chị càng nhớ đến nó, như là nhớ về một Chàng Riệc - Rùm Đuôn - Đất Đỏ thuộc R thời đánh Mỹ.
Đưởng lên một khu di tích lịch sử ở miền Đông Nam bộ |
Đặt mật danh cho một chiến khu, một vùng căn cứ đã có từ thời cha ông đánh giặc Tàu, đặc biệt có nhiều trong hai cuộc kháng chiến giữ nước vừa qua, nhưng mật danh R của Trung ương Cục do ai đặt, đặt vào thời gian nào, đến nay vẫn chưa có tài liệu chính xác. Riêng tôi - một người viết báo suốt 10 năm trận mạc - cũng chỉ biết, để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng thông suốt, từ năm 1951, Trung ương Đảng đã cho thành lập Trung ương Cục Miền Nam (sau năm 1954 gọi là Xứ ủy Nam bộ).
Sau phong trào “đồng khởi” 1960, cách mạng miền Nam đã có bước phát triển mới, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên chiến tranh cách mạng, Trung ương Đảng quyết định thành lập lại Trung ương Cục Miền Nam, ngày 23/1/1961. Trung ương Cục Miền Nam tổ chức thành lập long trọng tại suối Nhum - Mã Đà thuộc chiến khu Đ (huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai bây giờ).
Đầu năm 1962, căn cứ Trung ương Cục chuyển về bắc Tây Ninh, vùng Chàng Riệc, hay còn gọi là Rùm Đuôn - Đất Đỏ (bây giờ thuộc huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh) cho đến ngày 30/4/1975. Trung ương Cục là một bộ phận của Ban chấp hành Trung ương Đảng, chỉ đạo trực tiếp cách mạng miền Nam (sau đó Trung ương Cục đề nghị Trung ương Đảng cho thu hẹp phạm vi lãnh đạo từ vùng cực Nam Trung bộ đến Nam bộ).
Về R, lên R, ở R là những từ ngắn gọn mà thiêng liêng đối với những người kháng chiến như chúng tôi, ngay cả lúc này, sau 41 năm giang sơn thu về một mối.
Căn cứ Trung ương Cục nằm gọn trong huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Tân Biên là một huyện do Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đặt tên. Căn cứ Trung ương Cục di chuyển nhiều lần, có khi phải qua đất bạn Campuchia, nhưng trụ lại lâu nhất vẫn là khu rừng Chàng Riệc, chỉ cách thị xã Tây Ninh theo đường bộ trên dưới 60km, đường chim bay thì nằm trong sự khống chế của các cụm pháo 105, 175 của đối phương.
Trở lại R lần này, anh chị Tám không cắt rừng như thủa nào mà lội bộ từ thị trấn Tân Biên ở ngã ba Cần Đăng lên cửa khẩu Xa Mát 17km, đi tiếp 18km nữa theo đường biên giới, giữa cái nắng rũ lá xanh cuối mùa khô. Hỏi sao không đi xe ôm, chị Tám lại nhìn tôi ngạc nhiên:
- Chớ cậu có muốn sống trọn vẹn với kỷ niệm chiến tranh?
Tôi hiểu, phải da diết lắm với chiến khu, anh chị mới đủ sức băng qua 35km bằng đôi chân khi tuổi đã quá xế chiều để ôn lại kỷ niệm với từng cụm rừng, từng con suối trước khi về lại nơi mình từng phục vụ, chiến đấu suốt chục năm cho công cuộc giải phóng đất nước.
Đông Nam bộ cuối những năm 1970 vẫn còn bạt ngàn rừng nguyên sinh. Cho đến đầu những năm 1980, cả Tân Biên, cả phía Tây và Tây Bắc tỉnh Tây Ninh vẫn mênh mông rừng già, ban ngày cọp ra lộ 22, lộ Ủi nằm phơi nắng. Nhưng là rừng vô chủ nên mạnh ai nấy khai hoang, cộng với chủ trương đưa dân Sài Gòn lên xây dựng “kinh tế mới”, mà thực chất là phá rừng làm rẫy, khi những người có trọng trách “tỉnh ra” thì hàng trăm ngàn hecta rừng Tây Ninh chỉ còn lại khoảng 20%, chạy dọc vài chục kilomet theo biên giới Việt Nam - Campuchia.
May sao, đến nay Tây Ninh còn giữ được trên 18.000 hecta rừng, dù không còn nguyên sinh nhưng vẫn đa dạng hệ sinh thái động - thực vật, trong đó có Căn cứ Trung ương Cục đã được đầu tư phục chế gần như cũ, trở thành khu di tích lịch sử quan trọng nhất miền Nam.
Một khu rừng trong số 18.000ha rừng còn lại tại tỉnh Tây Ninh |
Sốt ruột, không chờ được người bảo vệ khu di tích dẫn đường, chị Tám băng lên trước, đến nhà bảo vệ, đến nhà bếp Hoàng Cầm - nơi chị đã thức khuya dậy sớm lo cơm nước cho các lãnh đạo Trung ương Cục.
Chúng tôi lại theo những con đường mòn quen thuộc tìm đến nhà đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng, Phan Văn Đáng, Võ Văn Kiệt... Mắt chị Tám nhòa lệ, tay chị vân vê từng gốc cây thân quen 41 năm trước. Anh Tám thì ngẩn ngơ với mái lá trung quân, với hầm chữ A, với những đường hào lượn khúc khuỷu từ nhà này sang nhà khác, lượn vòng quanh căn cứ... Bỗng anh Tám chỉ:
- Trái rùm đuôn kia!
- Nó chín có màu đen, ăn chua chua ngọt ngọt, lúc có bầu, em bắt anh hái hoài - chị Tám háo hức nhìn lên cây rùm đuôn mà anh Tám chỉ.
Khu rừng này có rất nhiều cây rùm đuôn mà thành danh. Đất Đỏ là cái đồi Chàng Riệc, cách Rùm Đuôn nửa giờ băng rừng, toàn đất đỏ, cũng thành danh luôn.
Nhắc đến đứa con không ra đời được bởi cuộc hành quân “Tìm diệt” có tên Junction City đầu năm 1967 của quân Mỹ, mặt chị Tám tái xanh. Hồi ấy, Trung ương Cục tạm chuyển sang bên kia biên giới, anh chị Tám ở lại chiến đấu. Căn cứ thì vẫn đứng vững mà đứa con ba tháng trong bụng mẹ, chị không bảo vệ được. Bây giờ anh chị Tám tìm đâu ra nấm mồ có hình hài đứa con tội nghiệp!
Trạm xá (được phục chế) trong căn cứ kháng chiến |
Chúng tôi ngồi lại bên bờ suối Cô Tiên - con suối độc nhất chảy trong căn cứ Trung ương Cục, mùa khô chỉ xăm xắp nước. Chị Tám thẫn thờ ngắm con suối luồn lách giữa những gốc cây, nơi đây ngày trước chị xõa tóc gội, nơi đây những trưa, những chiều các “nàng tiên giải phóng” tắm giặt...
Những năm đầu thập niên 1960, con gái ở căn cứ rất hiếm nên dòng suối này vinh dự mang tên họ - những Cô Tiên Giải phóng.
Lại văng vẳng bên tai chúng tôi bài ca theo điệu Khấp hoàng thiên trong những năm kháng chiến:
Rừng Nhum có cô Kiều Hạnh
Bời Lời có chị Hai Nê
Suối Ông Hùng có bà Út Chói
Trảng Cỏ có chị Năm Bèo
Đầu bèo nhèo đít láng mướt
Có con mà không có chồng...
Đấy là bài ca vui, đầy tính nhân văn đối với các cô gái giải phóng vì sống quá lâu trong rừng, không lấy chồng được nhưng muốn có con. Địa danh trong bài ca là những điểm tập kết để các cô giao liên Kiều Hạnh, Hai Nê, Út Chói, Năm Bèo... đưa người vào ra căn cứ Trung ương Cục.
Các cô gái ấy nay còn hay mất, rừng ơi!
>Chuyện chưa kể về một chiến khu
>Cùng sống và làm du lịch với di tích, di sản
>Đa Mai của thời chiến tranh giữ nước