![]() |
Trong bài viết “Beijing's dangerous arrogance in the South China Sea“ (Tạm dịch: Sự ngạo mạn nguy hiểm của Trung Quốc ở Biển Đông) đăng vào Chủ nhật 18/5, tờ South China Morning Post của Hồng Kông khẳng định hành vi đối đầu của Trung Quốc đối với các quốc gia láng giềng trong khu vực là hung hăng, kiêu ngạo và có hơi hướm của chủ nghĩa Sô-Vanh, chủ nghĩa vị chủng.
![]() |
Một tàu đầu kéo của Trung Quốc mở vòi rồng chĩa ra hai bên khi tiến sát các tàu cảnh sát biển và kiểm ngư Việt Nam. Ảnh: Nguyễn Đông. |
Cây bút bình luận kỳ cựu Philip Bowring đã viết như sau:
Khác xa biểu hiện của niềm tự hào dân tộc, việc này đã gán cho lòng yêu nước một cái tên xấu xa. Người Hồng Kông yêu nước nên nhận ra đây chính là một mưu đồ nguy hiểm.
Bắc Kinh không chỉ bành trướng đến Việt Nam và Philippines mà còn thành công trong việc biến Indonesia từ vị trí điều phối viên giữa Trung Quốc và các quốc gia ở Biển Đông trở thành đối thủ. Trong vài tháng gần đây, đã hai lần Indonesia cáo buộc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trái phép với một phần của quần đảo Natuna. Quá nhiều cho một "sự trỗi dậy hòa bình" khi Trung Quốc chọc tức hàng xóm với dân số hơn 400 triệu người, quốc gia mà họ cho là yếu ớt.
Tuyên bố chủ quyền vùng biển của Trung Quốc bao gồm toàn bộ khu vực nằm trong chín đoạn kéo dài hơn 1.000 hải lý tính từ bờ biển Quảng Đông và đảo Hải Nam đến Borneo, hòn đảo Malaysia, Indonesia và Brunei đồng sở hữu, và bao gồm hầu như tất cả các vùng biển giữa Việt Nam và Philippines. Tuyên bố này bao gồm hơn 90% diện tích của Biển Đông, mặc dù Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan) chỉ sở hữu khoảng 20% đường bờ biển.
Tất cả tuyên bố này dựa trên cơ sở tuyên bố lịch sử có lợi cho Trung Quốc, bỏ qua sự tồn tại của các dân tộc khác cũng như lịch sử hàng hải và giao thương trong suốt 2.000 năm qua, rất lâu trước khi doanh nhân Trung Quốc biết đến vùng biển phía nam này.
Người Indonesia đã đến châu Phi và chiếm Madagascar thuộc địa trước Trịnh Hòa hơn 500 năm. Đổi lại, các dân tộc Đông Nam Á hấp thụ nhiều yếu tố văn hóa từ Ấn Độ và Hồi giáo hơn so với Trung Quốc.
Việc Trung Quốc mang giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển phía đông Đà Nẵng chỉ là một trong những trường hợp nhỏ. Trung Quốc lấy cớ quần đảo Hoàng Sa mà họ đang chiếm đóng gần với vị trí mà Bắc Kinh đặt giàn khoan dầu hơn Việt Nam. Nhưng thật ra cả hai nước vẫn đang tranh chấp quần đảo này sau khi Trung Quốc vô cớ xâm chiếm Hoàng Sa vào năm 1974.
Nhưng Trung Quốc chưa bao giờ định cư ở đây. Họ dùng những lý lẽ yếu ớt để hưởng trọn vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Lịch sử từ xa xưa khẳng định vùng bờ biển này là trái tim của Vương quốc Chăm - nơi mà trong 1.000 năm giữ vị trí hàng đầu trong thương mại khu vực.
Vì vậy, Trung Quốc không có lý gì đòi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ Hoàng Sa.
Các quốc gia khác trong khu vực - Indonesia, Singapore, Malaysia - đã đặt vấn đề quyền sở hữu các hòn đảo ra Tòa án Công lý Quốc tế và chấp nhận kết quả. Nhưng Trung Quốc vẫn không muốn thỏa hiệp hay đưa ra trọng tài. Mặt khác, sự hợp tác cùng phát triển là không thể diễn ra bởi Trung Quốc muốn ra điều kiện để các nước phải chấp nhận chủ quyền sai trái của họ.
Đối với các bãi cạn ngoài khơi Philippines, tuyên bố của Trung Quốc dựa trên một mớ lịch sử và thực tế rằng, họ tuyên bố chủ quyền trước. Đây là lý lẽ quá yếu, vì Trung Quốc không liên tục hiện diện trên các bãi cạn này, còn Philippines thừa hưởng khu vực này từ hiệp ước giữa hai cường quốc thực dân phương Tây. Quá rõ ràng là những bãi cạn này và một số thực thể khác nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và trong khu vực mà người dân nước này đã khai thác từ lâu đời đến mức không có gì phải bàn cãi.
Bãi cạn Scarborough nằm khoảng 200km cách Luzon và cách Trung Quốc 650km.
So với bãi cạn Scarborough, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Bãi Trăng Khuyết còn vô lý hơn nữa. Đây là rạn san hô nơi Philipines bắt giữ ngư dân Trung Quốc với cáo buộc đánh bắt loài rùa biển quý hiếm. Rạn san hô này nằm 110km cách đảo Palawan, cách Trung Quốc gần 1.500km.
Cái cớ của tuyên bố vô lý này thực ra được truy ngược về thời Quốc Dân Đảng vốn bây giờ chẳng còn tồn tại.
Không thể lấy chuyện nhiều chính phủ trước đây thỉnh thoảng cống nạp cho Trung Quốc như cái cớ để xác lập chủ quyền của Trung Quốc, vì việc cống nạp đối với những quốc gia này là một dạng thuế để đổi lại việc giao dịch với Trung Hoa.
Nếu nước nào cũng hành xử đáng quan ngại như Trung Quốc, sắm vai đế quốc trong vùng, thì Thổ Nhĩ Kỳ cũng có thể tuyên bố Ai Cập thuộc về họ, và Nga có thể tuyên bố chủ quyền trên khắp vùng Trung Á, tác giả bài báo trên suy luận.
Theo nhà báo Phillip Bowring, một Trung Quốc hồi sinh đang muốn thể hiện sức mạnh cơ bắp và khẳng định ai là "ông chủ" trong khu vực, giống như những gì họ làm với Việt Nam vào năm 1979, để nhắc nhở người Mỹ về điểm yếu của mình. Nhưng một nguyên nhân nữa là tâm lý không coi những dân tộc ngoại Hán là bình đẳng.
Trung Quốc có lịch sử rất dài, tự coi mình là ưu việt hơn, đặc biệt đối với những dân tộc xung quanh. Niềm tin vào thuyết ưu sinh cùng nhu cầu bảo vệ và thúc đẩy đặc điểm gene của người Hán cực kỳ mạnh. Tư tưởng này bị lên án dưới thời kỳ Mao Trạch Đông, nhưng nay đang trở lại ở Trung Quốc đại lục. Đây hoàn toàn là một sự gượng ép để đàn áp những quốc gia láng giềng có lịch sử và nền văn hóa riêng biệt, theo tác giả Phillip Bowring.
>VIỆT NAM KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYỀN TẠI BIỂN ĐÔNG
>Trung Quốc đang thể hiện thái độ lạm quyền
>Tham vọng bá quyền của Trung Quốc
>Lòng yêu nước vẫn vô tận
>Mỹ xem hành động của Bắc Kinh là "gây hấn"
>Bắc Kinh sẽ là "nạn nhân lớn nhất" trong căng thẳng Biển Đông