Biếng ăn và háu ăn

BS-CKI. ĐÀO THỊ YẾN THỦY| 12/04/2013 08:40

Các rối loạn về hành vi ăn uống (eating disorder) có thể coi là một bệnh có biểu hiện bằng việc người mắc tự ép buộc mình phải ăn hoặc từ chối ăn mà không theo nhu cầu tự nhiên của cơ thể, gây ra những tác hại tới sức khỏe thể chất và tinh thần.

Biếng ăn và háu ăn

Các rối loạn về hành vi ăn uống (eating disorder) có thể coi là một bệnh có biểu hiện bằng việc người mắc tự ép buộc mình phải ăn hoặc từ chối ăn mà không theo nhu cầu tự nhiên của cơ thể, gây ra những tác hại tới sức khỏe thể chất và tinh thần.

Đọc E-paper

1. Các rối loạn này có thể tạm chia thành hai nhóm lớn là biếng ăn (chán ăn) và háu ăn (ăn vô độ) với nhiều hình thức và mức độ, có thể là sinh lý, cũng có khi trầm trọng thành bệnh lý và kéo dài.

Bệnh có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống do có những xáo trộn trong hành vi ăn uống cũng như trong ý nghĩ và cảm xúc có liên quan tới các hành vi này.

Hậu quả của việc không cung cấp đủ hoặc cung cấp quá mức năng lượng cho cơ thể sẽ gây ra những tác động trực tiếp ngay trên tình trạng dinh dưỡng của người bệnh, dẫn đến các bệnh lý do rối loạn dinh dưỡng và càng ảnh hưởng nhiều hơn đến tâm lý, tinh thần của người bệnh.

Các hình thức của biếng ăn có thể là ăn số lượng ít, kén ăn (chỉ ăn một số món), không muốn ăn, cảm giác ngán thức ăn, dễ nôn ói, trẻ em thì ngậm, không chịu nhai nuốt...

Nếu mức độ biếng ăn nhẹ và tạm thời do cơ thể bị nhiễm trùng, do trẻ bị ép ăn quá mức, dẫn đến biếng ăn tâm lý, những giai đoạn biếng ăn sinh lý trong 1 - 2 tuần khi trẻ mọc răng, học bò, học đi...; trẻ bị thiếu máu do thiếu sắt, thiếu kẽm, thiếu vitamin A... do chế độ ăn không phù hợp, người lớn bị căng thẳng (stress)... thì có thể gọi là "biếng ăn bình thường".

Hoặc ở những trẻ béo phì, gia đình có di truyền khả năng ăn dễ, cha mẹ béo phì thì con cũng háu ăn và béo phì thì đây là những trường hợp "háu ăn bình thường".

Những rối loạn ăn uống bất thường có thể gặp ở trẻ lớn và người lớn (thường là giới nữ) là chứng chán ăn tâm thần, ăn rồi tự móc ói, ăn vô độ là những biểu hiện của rối loạn tâm thần ảnh hưởng nặng nề đến thể chất và có thể tử vong vì kiệt sức, suy dinh dưỡng, hoặc dẫn đến bệnh béo phì, bệnh đái đường, tăng huyết áp và bệnh tim mạch.

Các rối loạn ăn uống ảnh hưởng lớn đến phái nữ độ tuổi từ 12 đến 35, nhưng các nhóm khác cũng cho thấy nguy cơ tăng dần. Rối loạn ăn uống tác động đến tất cả các nước và chủng tộc, không một nhóm người nào được loại trừ.

Thanh niên và thiếu niên có nguy cơ cao mắc bệnh này, được cho là do phương tiện truyền thông liên tục đưa ra hình mẫu "gầy mới đẹp".

Theo ước tính, trong suốt cuộc đời, một phụ nữ Hoa Kỳ có từ 5% đến 7% khả năng rối loạn ăn uống do tâm thần. Đối với trẻ mắc bệnh thì phần lớn rơi vào độ tuổi từ 10 đến 20.

Các nghiên cứu chỉ ra rằng, 80% trẻ em không hài lòng về ngoại hình và trọng lượng cơ thể và nhiều em gái sẵn sàng cho việc ăn kiêng. Căng thẳng tâm lý cũng là nguyên nhân làm phát triển bệnh.

Người bệnh có nhận thức sai lệch về hình dáng cơ thể, thường cho rằng mình quá béo trong khi thực tế là thiếu cân. Nghiên cứu sinh học cho thấy có nhiều thay đổi về nội tiết tố, hóa chất trung gian trong não của nhóm người này.

2. Rối loạn ăn uống nặng để lại những hậu quả thể chất nghiêm trọng :

- Tai hại cho thận.

- Nhiễm trùng đường tiểu và làm hại đến ruột già.

- Mất nước, táo bón, tiêu chảy.

- Động kinh, co giật bắp thịt hay chuột rút.

- Chứng ăn không tiêu kinh niên.

- Mất kinh hoặc kinh nguyện thất thường.

- Các bộ phận cơ thể hầu hết bị suy yếu.

Nhiều hậu quả của chứng chán ăn tâm thần liên quan đến suy dinh dưỡng, gồm có:

-Có trọng lượng thấp một cách bất thường (có trọng lượng ít hơn 85% so với tuổi và chiều cao, hoặc có BMI <= 17.5).

- Mất kinh (mất kinh được định nghĩa là không có kinh trong ba chu kỳ kinh nguyệt liên tiếp).

- Có nỗi sợ hãi để lấy lại trọng lượng cơ thể bình thường, hoặc trở lên béo và có mối bận tâm quá mức đến trọng lượng cơ thể và ngoại hình.

- Rất nhạy cảm với thời tiết lạnh.

- Không có khả năng tập trung và suy nghĩ hợp lý.

3. Chứng ăn vô độ tâm thần là một kiểu hành vi chu kỳ với đặc điểm là có giai đoạn ăn thái quá rồi mất kiểm soát:

- Tái diễn các cơn ăn vô độ trong một khoảng thời gian ngắn (1 đến 2 giờ).

- Ăn một lượng thực phẩm quá nhiều, không thể ngừng ăn hoặc không thể kiểm soát mình ăn gì và ăn bao nhiêu.

-Có những hành vi bù trừ không thích hợp như kích thích ói, lạm dụng chất nhuận trường, thuốc lợi tiểu, thụt tháo hoặc các loại thuốc khác, nhịn đói, tập luyện thể dục quá mức.

- Thường kèm theo các biến chứng cơ thể như mất nước, suy giảm nhịp tim...

Các cơn ăn vô độ và hành vi bù trừ không thích hợp cả hai xảy ra trung bình ít nhất 2 lần một tuần trong vòng ba tháng. Người mắc bệnh có trọng lượng bình thường, hoặc chỉ nhỉnh cân một chút, nhưng lại cảm thấy mình béo và không hấp dẫn.

Họ ăn kiêng nhằm kiểm soát thân thể, nhưng do bị đói nên có lúc ăn một lượng thức ăn quá nhiều. Xấu hổ và sợ bị béo thêm, họ tạm thời ngừng ăn hoàn toàn, có thể luyện tập quá mức và thường gây nôn hoặc lạm dụng thuốc tẩy để thanh lọc bản thân ở mức độ cực đoan nhất.

Bệnh thường gặp ở độ tuổi từ 18-20, tỷ lệ mắc từ 5 - 10% trong số nữ ở tuổi trung học và nữ thường chiếm đa số hơn nam.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới chứng háu ăn tâm thần:

- Có tiền sử bệnh lý béo phì, tự ti về hình dáng cơ thể.

- Đôi khi là do lời bình luận của gia đình, bạn bè về trọng lượng và hình dáng.

- Do áp lực muốn có một thân hình mảnh mai một cách không thực tế dẫn tới chỗ nhiều phụ nữ không bằng lòng với cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh của mình.

Phần lớn không phát triển thành bệnh, chỉ một số phụ nữ nào có nhân cách không ổn định hoặc đang trong giai đoạn stress kéo dài, quá tự ti với chính bản thân mình mới có nguy cơ mắc bệnh cao.

Can thiệp càng sớm khi các rối loạn ăn uống mới bắt đầu thì kết quả càng khả quan. Thời gian bình phục có thể mất hằng tháng hay hằng năm, nhưng phần lớn đều khỏi.

4. Những thay đổi trong hành vi ăn uống có thể là do sự phối hợp nhiều bệnh khác nhau gây ra, do vậy, bước đầu tiên phải làm là khám sức khoẻ tổng quát.

Hậu quả của việc không cung cấp đủ hoặc cung cấp quá mức năng lượng cho cơ thể sẽ gây ra những tác động trực tiếp ngay trên tình trạng dinh dưỡng của người bệnh, dẫn đến các bệnh lý do rối loạn dinh dưỡng và càng ảnh hưởng nhiều hơn đến tâm lý, tinh thần của người bệnh.

Trong việc chữa trị không chỉ có bác sĩ tâm lý mà còn cả bác sĩ chuyên ngành dinh dưỡng, đồng thời phải chữa cả bệnh lý để đạt hiệu quả cao nhất.

Việc điều trị có thể bao gồm:

- Cung cấp kiến thức về dinh dưỡng hợp lý và sức khỏe.

- Hướng dẫn cụ thể về thực phẩm, thực đơn sử dụng, cách chế biến.

- Giúp tạo lại các thói quen ăn uống lành mạnh.

- Tác động về mặt tâm lý để giúp người bệnh thay đổi niềm tin và hành vi có hại liên quan tới ăn uống.

- Thuốc trị trầm cảm có thể được dùng để làm giảm bớt tâm trạng lo âu nếu có.

Việc nhập viện có thể cần thiết cho những người bị suy dinh dưỡng trầm trọng, thường gặp ở bệnh nhân chán ăn tâm thần. Gia đình và bạn bè của người mắc chứng rối loạn ăn uống có thể cảm thấy bối rối và đau khổ, do vậy, một phần quan trọng trong việc chữa trị là hỗ trợ và giáo dục.

Việc điều trị chứng ăn vô độ tâm thần phải được các chuyên gia tâm thần xác định. Liệu pháp tâm lý được dùng chủ yếu trong trường hợp này.

Các nhà tâm lý lâm sàng thường triển khai một số liệu pháp như nhận thức hành vi là chủ yếu, liệu pháp hệ thống, liệu pháp thư giãn, luyện tập...

(0) Bình luận
Nổi bật
Đọc nhiều
Biếng ăn và háu ăn
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO