Những cổ đông nhỏ lẻ, với tỷ lệ sở hữu không đáng kể nên bị hạn chế trong việc giám sát, tác động đến hoạt động của doanh nghiệp (DN), luôn là đối tượng bị thiệt hại đầu tiên. Trong khi đó, các cổ đông lớn, ban lãnh đạo cấp cao của DN cũng ít khi lắng nghe tiếng nói và lợi ích của những cổ đông này.
Việc phát hành cổ phiếu ưu đãi cho người lao động (ESOP) của các DN gần đây lại trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý của thị trường, khi nhiều công ty sử dụng chính sách này một cách phổ biến và liên tục. Về cơ bản, ESOP được kỳ vọng là chính sách khích lệ tinh thần của cán bộ, nhân viên, giúp họ tăng năng suất và gắn bó hơn với mục tiêu phát triển của công ty.
Trong bối cảnh dịch Covid-19 gây ra nhiều thiệt hại, nhiều công ty khan hiếm tiền mặt hoặc muốn tiết giảm chi phí, nên càng ưa chuộng giải pháp phát hành ESOP để thưởng cho người lao động, thay vì phải bỏ tiền ra và ghi nhận như một khoản chi phí, có thể ảnh hưởng lên lợi nhuận vốn đang chịu áp lực sụt giảm mạnh so với giai đoạn trước. Thưởng bằng cổ phiếu còn giúp người lao động tránh được các khoản thuế thu nhập cá nhân và chỉ phải nộp 0,1% thuế khi bán cổ phiếu trên sàn chứng khoán và trả phí giao dịch khoảng 0,15%.
Tuy nhiên, việc cổ phiếu nhiều DN đang có thị giá cao gấp vài lần so với mức giá phát hành cổ phiếu ESOP theo mệnh giá 10.000đ/CP, dẫn đến thiệt hại cho các cổ đông khi cổ phiếu bị pha loãng, gây áp lực giảm giá là tất yếu. Đó là còn chưa nói đến việc ESOP có thể bị trục lợi, khi lượng cổ phiếu phát hành với giá ưu đãi này chỉ dành cho những lãnh đạo cấp cao nhằm tăng tỷ lệ sở hữu, hoặc những nhân sự thân cận được lựa chọn, chứ không phải hướng đến những cán bộ, nhân viên thật sự nổi trội và có đóng góp lớn cho công ty.
Ngoài ESOP, nhiều DN còn có những chính sách chỉ làm lợi cho các cổ đông lớn, chủ sở hữu DN hoặc ban lãnh đạo cấp cao. Đơn cử như việc phát hành thêm cổ phiếu với giá thấp hơn thị giá cho các cổ đông chiến lược, cổ đông lớn, trong khi tiếng nói của những cổ đông nhỏ lẻ vốn thường không được lắng nghe nên cũng không có cách nào can thiệp hay phản đối.
Hoặc như gần đây có DN còn đưa ra phương án bán cổ phiếu quỹ cho ban lãnh đạo với giá bằng mệnh giá, không rõ dựa trên cơ sở nào. Thử nghĩ một công ty trước đây bỏ tiền ra mua cổ phiếu quỹ theo thị giá trên sàn lớn hơn mệnh giá, nay lại dùng cổ phiếu quỹ đó để bán lại cho ban lãnh đạo bằng mệnh giá. Như vậy, thiệt hại tài chính cho công ty là rõ ràng, và đó thực chất cũng là thiệt hại cho cổ đông.
Còn trong trường hợp các cổ đông lớn, ban lãnh đạo của công ty có mâu thuẫn, đấu tố lẫn nhau, khiến giá cổ phiếu giảm, thì các cổ đông nhỏ có thể phải chứng kiến khoản đầu tư của mình rơi vào tình trạng thua lỗ, mà cũng không nắm được sự tình rõ ràng phía sau DN để có quyết định đúng đắn.
Do có những hạn chế về việc tiếp cận thông tin, các cổ đông nhỏ lẻ chỉ có thể dựa trên những sự kiện, dữ liệu được khai thác từ phía truyền thông. Nếu lựa chọn bán cắt lỗ, giá cổ phiếu sau đó có thể phục hồi trở lại vì có thể những "lùm xùm" này không ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả kinh doanh của DN. Ngược lại, nếu vẫn lựa chọn nắm giữ khoản đầu tư, ai dám chắc cổ phiếu sẽ không còn tiếp tục đi xuống, khi mà những mâu thuẫn vẫn chưa được giải quyết, các cổ đông lớn vẫn chưa tìm được tiếng nói chung.