Việc các chúa Nguyễn thành lập đội Hoàng Sa cũng như ý thức về biển đảo đã được các vị vua triều Nguyễn kế thừa, vì vậy, các hoạt động trên biển của nhà nước và ngư dân đều được chính sử ghi chép rõ ràng, từ việc khai thác nguồn lợi hải sản, đến việc quan hệ thương mại với nước ngoài trên đường biển... để từ đó khẳng định Việt Nam luôn luôn có chủ quyền không thể tranh cãi trên biển Đông.
Sách Đại Nam thực lục tiền biên quyển X, trong phần ghi chép về Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng đế có ghi chép rằng:
>Bộ sưu tập chứng cứ pháp lý chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa |
“Mùa thu, tháng 7, dân đội Hoàng Sa ở Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa, gặp gió dạt vào hải phận Quỳnh Châu nước Thanh. Tổng đốc Thanh hậu cấp cho rồi cho đưa về. Chúa sai viết thư cám ơn. (Ở ngoài biển, về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, có hơn 130 bãi cát cách nhau hoặc đi một ngày đường, hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy nghìn dặm, tục gọi là “Vạn lý trường sa”. Trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích, ba ba v.v... Buổi quốc sơ đặt đội Hoàng Sa 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hằng năm, đến tháng 3 thì đi thuyền ra, độ ba đêm ngày thì đến bãi, tìm lượm hóa vật, đến tháng 8 thì về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ người ở thôn Tứ Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn, để tìm lượm hóa vật; đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản)”.
Rồi chúa lại sai lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa, lại sai thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để thăm dò đường thủy.
“Sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò đường biển”, “Sai thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để thăm dò đường thủy”.
Đội Hoàng Sa đã hoạt động từ thời chúa Nguyễn Phúc Lan hay Nguyễn Phúc Tần đến hết thời kỳ chúa Nguyễn, cả thảy là trải qua 7 chúa, kéo dài hơn một thế kỷ rưỡi.
Đội Hoàng Sa kiêm quân Bắc Hải được thành lập từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687), khi các vị Chúa Nguyễn truyền dụ phường An Vĩnh, Cù Lao Ré, tổng Quảng Nghĩa (nay là xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) lập những đội quân ra Hoàng Sa, Trường Sa bảo vệ chủ quyền và khai thác các sản vật quý để tiến vua |
Bên cạnh hoạt động khai thác sản vật, vẽ bản đồ hướng đi của gió, khảo sát địa giới còn có hoạt động cứu dân bị nạn hoặc cứu tàu thuyền của nước ngoài gặp nạn tại Hoàng Sa. Cùng với việc xây dựng các công trình trên quần đảo Hoàng Sa, triều Nguyễn còn cho cứu giúp tàu thuyền của các nước khác bị nạn tại quần đảo này.
Trong thời kỳ vương triều Nguyễn trị vì đất nước, có nhiều tàu thuyền của các nước qua lại giao thương trong khu vực quần đảo Hoàng Sa, trong đó nhiều tàu thuyền bị nạn mắc cạn tại đây được sự giúp đỡ của triều Nguyễn, đã vượt qua được những thử thách trở về chính quốc.
Sách Đại Nam thực lục đệ chính biên nhị kỷ, quyển 176, năm Minh Mạng thứ 17 (1836) chép:
“Mùa đông, tháng 12, thuyền buôn Anh Cát Lợi (tức nước Anh ngày nay) đi qua Hoàng Sa, mắc cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người đi thuyền tam bản đến bờ biển Bình Định. Vua được tin, dụ tỉnh thần lựa nơi cho họ trú ngụ, hậu cấp cho tiền và gạo. Lại phái thị vệ thông ngôn đến dịch lời thăm hỏi, tuyên Chỉ ban cấp. Bọn họ đều quỳ dài, khấu đầu không thôi... Vua sai thưởng cho thuyền trưởng và đầu mục, mỗi người 1 áo đoạn vũ hàng màu, 1 quần vải tây và 1 chăn vải; các người tuỳ tùng mỗi người 1 bộ áo quần bằng vải màu. Sai Nguyễn Tri Phương và Vũ Văn Giải đưa họ sang bến tàu Hạ Châu, cho về nước”.
Những việc liên quan đến Hoàng Sa không phải là việc riêng của cá nhân hay bộ nào mà đó là việc chung của toàn bộ vương triều. Trong thời kỳ vua Minh Mạng, những vấn đề liên quan đến Hoàng Sa đã nhiều lần được đưa ra bàn bạc trong những buổi thiết đại triều.
Triều Nguyễn còn khuyến khích và khen thưởng cho các thuyền nước ngoài khi dâng tặng bản đồ về Hoàng Sa: “Thuyền Mã Cao đậu Đà Nẵng, đem địa đồ đảo Hoàng Sa dâng lên. Thưởng cho 20 lạng bạc”.
Việc thưởng cho thuyền nước ngoài đã minh chứng cho việc triều Nguyễn rất mực quan tâm tới Hoàng Sa như thế nào. Đó vừa là để ghi nhận đóng góp của họ, vừa là để khẳng định quần đảo Hoàng Sa là của nước Đại Nam.
Để khẳng định chủ quyền của nước Đại Nam, vua Minh Mạng còn sai quân đem vật liệu ra xây dựng miếu thờ trên đảo, lập bia đá và trồng cây cối để cho thuyền bè qua lại được biết khi gặp sóng lớn để mà trú ẩn.
Vua bảo bộ Công rằng: “Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường [mắc cạn] bị hại ! Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trồng nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, ngõ hầu tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời”.
Vua cho dựng đền thờ thần [ở đảo] Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi.
Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ “Vạn lý ba bình (cồn Bạch Sa [cát trắng] chu vi 1070 trượng, tên cũ là núi Phật Tự, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với một cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than thạch).
Năm ngoái vua toan dựng miếu lập bia ở chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được. Đến đây, mới sai Cai đội Thuỷ quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách toà miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước miếu xây bình phong. Mươi ngày làm xong, rồi về.
Bộ Công tâu: “Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia, đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được 1 nơi, cũng chưa rõ ràng. Hằng năm, nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn phái biền binh thuỷ quân và vệ Giám thành đáp 1 chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa.
Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại, xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về, dâng trình”.
Vua y lời tâu, sai Suất đội Thuỷ quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi. Chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi (mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ “Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, Thuỷ quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ.
Tại các tài liệu lịch sử đều ghi lại và cho thấy, đội Hoàng Sa được thành lập từ thời Chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687). Đội Hoàng Sa tiếp tục được tồn tại và duy trì hoạt động dưới nhiều triều đại khác nhau. Năm 1803, sau khi lên ngôi được một năm, (năm Gia Long thứ 2), vua đã ra chỉ dụ cho đội Hoàng Sa tiếp tục công việc như cũ |
Viên ngoại lang Công bộ Đỗ Mậu Thưởng vâng lệnh phái đi công cán Hoàng Sa về, đem bản đồ dâng lên, vua cho là trải qua nhiều nơi, xem đo tường tất so với phái viên mọi lần thì hơn. Đỗ Mậu Thưởng và các người đi cùng đều được gia thưởng áo quần và tiền.
Phái viên đi Hoàng Sa là Suất đội Thuỷ sư Phạm Văn Biện trước đây bị bão sóng làm tản mát, đến nay lục tục về tới Kinh. Hỏi, họ nói nhờ có thuỷ thần cứu giúp. Vua sai bộ Lễ chọn địa điểm ở đồn cửa biển Thuận An đặt đàn dùng lễ Tam sinh hướng ra biển lễ tạ. Thưởng tiền cho Phạm Văn Biện và viên biền binh, dân đi theo phái đoàn có thứ bậc khác nhau.
Những ghi chép về hoạt động ở quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn trong chính sử đã khẳng định những việc làm thiết thực này của triều Nguyễn đối với phần lãnh thổ trên biển. Nó chứng tỏ chủ quyền, sự hiện diện của cư dân nước Đại Nam trong việc thực thi chủ quyền và khai thác các tài nguyên trên khu vực quần đảo này.
Có thể nói, chủ quyền biển đảo luôn luôn được các đời vua chúa nhà Nguyễn nối nhau quan tâm cai quản. Từ việc ý thức được chủ quyền cũng như bảo vệ và khai thác các nguồn lợi trên biển đến việc cứu vớt những tàu thuyền nước ngoài bị đắm ngoài khơi, lại cấp dưỡng lương thực thực phẩm, đóng và tu sửa tàu bè, cho những người gặp nạn về nước. Điều đó thể hiện tấm lòng nhân ái của các vua chúa triều Nguyễn đối với quan hệ ngoại giao với nước ngoài trên biển Đông.