Cụ thể, Điểm b Khoản 3 Điều 36 của Luật Phòng, chống tham nhũng quy định những người làm công tác tổ chức cán bộ, quản lý tài chính công, tài sản công, đầu tư công hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác phải kê khai tài sản hằng năm (trước ngày 31/12 hằng năm).
Nghị định 130 nêu cụ thể những người này bao gồm:
- Những ngạch công chức và người giữ chức danh công chức sau: chấp hành viên; điều tra viên; kế toán viên; kiểm lâm viên; kiểm sát viên; kiểm soát viên ngân hàng; kiểm soát viên thị trường; kiểm toán viên; kiểm tra viên của Đảng; kiểm tra viên hải quan; kiểm tra viên thuế; thanh tra viên; thẩm phán.
- Những người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý từ phó trưởng phòng và tương đương trở lên công tác trong một số lĩnh vực được xác định trong danh mục tại Phụ lục III được ban hành kèm theo nghị định này.
Cũng theo Điều 20 của Nghị định 130 nhấn mạnh, người có nghĩa vụ kê khai tài sản mà tẩu tán, che dấu tài sản, thu nhập, cản trở hoạt động kiểm soát tài sản, thu nhập; không nộp bản kê khai sau hai lần được đôn đốc bằng văn bản thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý bằng một trong các hình thức: cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, bãi nhiệm, buộc thôi việc, giáng cấp bậc quân hàm, giáng cấp bậc hàm.
Trong khi đó, người có nghĩa vụ kê khai mà kê khai không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì tùy theo tính chất, mức độ mà bị xử lý theo Điều 51 của Luật Phòng, chống tham nhũng.
Riêng người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thiếu trách nhiệm trong tổ chức việc kê khai, công khai bản kê khai, nộp bản kê khai thì tùy theo tính chất, mức độ mà bị xử lý kỷ luật bằng một trong các hình thức khiển trách, cảnh cáo, giáng chức.
Nghị định này có hiệu lực từ ngày 20/12/2020, thay thế cho Nghị định 78/2013/NĐ-CP.