Hoàng Cầm: Nhà thơ Kinh Bắc, nhà thơ quê Việt

SỸ ĐẠI| 13/05/2010 05:53

Hoàng Cầm dường như sinh ra chỉ để làm thi sĩ, ông mơ mộng từ ngày còn "để chỏm". Ông kể với tôi, và tôi cũng đã từng thấy, ông chỉ sống với và nghĩ đến người thơ, đến những câu thơ, chỉ nói chuyện thơ và đêm nào kề bên gối cũng có sẵn cây bút, xấp giấy trắng...

Hoàng Cầm: Nhà thơ Kinh Bắc, nhà thơ quê Việt

Một ngày đầu Hạ, chính xác là 9 giờ 30 phút ngày 6/5/2010, một tin loan nhanh hơn mọi tin khác, nhà thơ của Bên kia sông Đuống, Lá diêu bông đã qua đời. Với gia đình và những người thân, đây là điều đã sớm được dự liệu, kể từ sau cú ngã định mệnh mấy năm trước khiến ông không còn đi được ra khỏi nhà và trí lực, sức lực ngày một suy giảm.

Sự ra đi của ông càng tôn vinh những giá trị văn chương mà ông đã sáng tạo ra trong suốt cuộc đời không ít thăng trầm, sóng gió. Điều đáng nói là những giá trị ấy xuất phát từ những tình cảm trong sáng và cao đẹp của con người: tình yêu quê hương, tình yêu đôi lứa. Ngoài Xuân Diệu, Hoàng Cầm cũng được coi là ông hoàng của thơ tình yêu. Thơ tình Hoàng Cầm đẹp, trái ngang và chắc sẽ còn ám ảnh suốt nhiều thế hệ...

Hoàng Cầm dường như sinh ra chỉ để làm thi sĩ, ông mơ mộng từ ngày còn "để chỏm". Ông kể với tôi, và tôi cũng đã từng thấy, ông chỉ sống với và nghĩ đến người thơ, đến những câu thơ, chỉ nói chuyện thơ và đêm nào kề bên gối cũng có sẵn cây bút, xấp giấy trắng...
Ông là nhà thơ có thần cảm.

Không ai ngoài ông nhìn được sông Đuống, còn được gọi là sông Thiên Đức, nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ, cái câu thơ ám ảnh nhiều người. Và nếu như về địa lý, sông Đuống có không nằm nghiêng đi chăng nữa, thì trong ký ức về kháng chiến chống Pháp, trong tâm cảm của chúng ta không bao giờ mất đi con sông Đuống nghiêng nghiêng ấy. Nó cũng giống như lá diêu bông, cỏ bồng thi, những cầu Bà Sấm, bến Cô Mưa...

Nhưng “tuần du” với Hoàng Cầm trong "bốn tám dáng thơ đi tám nhịp" khi về Kinh Bắc không phải là điều dễ dàng. Thơ Hoàng Cầm không ít những u huyền. Dẫu vậy, trong cõi u huyền ấy vẫn có một người quê, một vùng quê hiền lành, chất phác, thân thuộc với mọi người.

Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc
Chiều xưa giẻ quạt voi lồng
Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc
Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông.
Nhiều tìm tòi, nhiều tia chớp dọc ngang rạch giữa thơ Hoàng Cầm, nhưng những câu thơ bừng sáng mỹ cảm trong sự giản dị hồn quê vẫn là những câu thơ hay nhất:
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Hồn dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
...
Cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng

Và rồi từ con "Chìa vôi quệt gió hững hờ" đến "váy Đình Bảng buông chùng cửa võng" đều hằn sâu vào trí nhớ, nhẹ bước vào mùa hương cổ điển.

Quê cha Hoàng Cầm là làng tranh Đông Hồ, quê mẹ là làng Bịu, nơi sinh ra người con gái tài sắc bậc nhất Trần Thị Tần, thân mẫu của thi hào Nguyễn Du. Tuổi thơ ông trôi qua ở một vùng quê văn vật nhất nước, giữa rực rỡ hội hè "có thi nhau giật giải pháo toàn hồng"...

Rồi kháng chiến nổ ra, ông gia nhập Vệ quốc quân và biền biệt xa quê từ thuở ấy. Ai sống được cũng phải nương níu, tin tưởng vào một điều tốt đẹp nào đó và cái mà Hoàng Cầm nương níu chính là vùng quê yêu dấu của ông.

Hoàng Cầm càng miên man trong ký ức, càng đi sâu vào cái tôi, thì thế giới Kinh Bắc của ông càng được mở rộng: từ cánh chuồn chuồn khiêng nắng, đám cưới chuột tưng bừng rộn rã, các hội thi ăn mía thổi cơm, thi đánh đu, hát đúm, Hội Gióng, Hội Vân Hà đến trai đời Trần, gái Hậu Lê, mưa Thuận Thành, nước sông Thương...; nơi lịch sử quấn vào huyền sử, ký ức cồn cào trong mộng ảo.

Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm do đó mở về không gian, về thời gian. Thế giới mà ông vẽ ra chính là đời sống dân tộc, vừa như thân thuộc, vừa như xa tít tắp; vừa phía sau lại có thể tìm về nơi phía trước; vừa là cái đã từng có, vừa là cái chưa từng có nhưng đều chân thật, rung động đến lạ lùng.

Hoàng Cầm xa quê từ nhỏ. Vì vậy, ký ức của ông về nông thôn là ký ức của một đứa trẻ. Và chính cái thơ dại đó đã làm nên sức hấp dẫn của thơ ông:

Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh
Đi mãi tìm sim chẳng chín
Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô
Gặm cỏ mưa phùn
       (Về với ta)

Cỗ bài tam cúc mép cong cong
Rút trộm rơm nhà đi trải ổ
Chị gọi đôi cây
Trầu cay má đỏ
Kết xe hồng đưa chị đến quê em.

Là con nhà thi thư, vốn dòng khoa bảng, có tú tài Tây nhưng lại nhuần nhị văn hóa dân gian nên sự kết hợp hai nền học vấn, sự kết hợp giữa hiện thực con người và sinh hoạt Kinh Bắc cùng những liên tưởng thăm thẳm đầy bất ngờ trong cái tình cảm gần như mê đắm mới làm nên những bài thơ tuyệt diệu: Bên kia sông Đuống, Chùa Hương, Về với ta, Lá diêu bông, Quả vườn ổi, Cây tam cúc...

Có lẽ vì sự mê đắm ấy mà từ những ngày đầu đời, các chuyện kể, sách sử và cuộc sống đã ùa vào chật đầy tâm hồn thi sĩ. Thế nào là thực, thế nào là ảo? Cả những chặng đời dài sau này, những gì mắt thấy tai nghe đối với ông dường như là ảo, là không quan trọng nữa. Hoặc nó chỉ là những gợi nhớ để ông trở về sống với tiềm thức của mình.

Lâu đài thơ kỳ ảo của Hoàng Cầm đẹp trong sóng mắt sông Cầu, sông Đuống, trong mây ráng Thiên Thai. Những tên làng, tên hội, tên người có thật của vùng Kinh Bắc và cả những cái tên ông tạo ra đều sâu lắng hồn quê Việt.

Nhà thơ Hoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt (lấy tên quê Phúc Tằng, Việt Yên, Bắc Giang), sinh năm 1922. Ông được đánh giá là một trong những gương mặt lớn của thi ca Việt Nam trong thế kỷ XX. Làm thơ từ năm 8 tuổi. Dưới thời Pháp thuộc, 15 tuổi, Hoàng Cầm viết kịch thơ Hận Nam Quan. 20 tuổi, sáng tác kịch thơ Kiều Loan, hai tác phẩm gợi lòng yêu nước, kích động sĩ khí, thúc đẩy con người vùng lên chống ngoại xâm. Trong thời kháng chiến, Hoàng Cầm sáng tác và trình diễn ba bài thơ gây chấn động lòng quân và lòng người: Đêm liên hoan, Tâm sự đêm giao thừa và Bên kia sông Đuống. Tham gia cách mạng từ năm 1944. Tham gia Vệ quốc quân năm 1947, từng là Trưởng đoàn Văn công Quân đội. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957. Các tác phẩm chính: Hận Nam Quan (kịch thơ, 1944), Kiều Loan (kịch thơ, 1945), Bên kia sông Đuống (thơ, 1948), Kinh Bắc (thơ, 1959), Mưa Thuận Thành (thơ, 1959), Men đá vàng (thơ, 1973), Lá diêu bông (thơ, 1993), Đến từ hư không (2000). Giải thưởng Nhà nước về Văn hóa Nghệ thuật năm 2007.
(0) Bình luận
Nổi bật
Đọc nhiều
Hoàng Cầm: Nhà thơ Kinh Bắc, nhà thơ quê Việt
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO