Kết quả của đề án là cơ sở để lãnh đạo TP xem xét và lựa chọn chiến lược phát triển xuất khẩu phù hợp theo hướng bền vững và cân bằng, vừa có giá trị gia tăng cao, vừa phù hợp với nhu cầu thị trường và năng lực xuất khẩu của TP.
Với xuất khẩu hàng hóa, TP dự báo đến năm 2025, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 70 tỷ USD và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân giai đoạn 2026 - 2030 đạt 9%/năm. Theo đó, đến năm 2030 kim ngạch xuất khẩu ước đạt 108 tỷ USD.
Với nhóm sản phẩm phần mềm, nội dung số, dự ước kim ngạch xuất khẩu năm 2020 đạt 5 tỷ USD, đến năm 2025 đạt 10,1 tỷ USD và năm 2030 có thể đạt 20,3 tỷ USD.
TPHCM đặt ra nhiệm vụ đến năm 2025, duy trì và hỗ trợ phát triển các sản phẩm chủ lực truyền thống có kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng cao, tạo nhiều việc làm và đóng góp ngân sách lớn cho TP, trong khi đó chuẩn bị điều kiện để nâng cấp công nghiệp, gia nhập chuỗi giá trị toàn cầu, hướng đến thực hiện dịch vụ xuất khẩu là chiến lược dẫn dắt nhằm nâng cao giá trị gia tăng đúng theo lợi thế cạnh tranh của TP.
Đồng thời, xây dựng chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh các cụm ngành xuất khẩu theo hướng dịch chuyển sang các công đoạn thượng nguồn và hạ nguồn của chuỗi giá trị toàn cầu; bước đầu chuyển dịch dần từ những ngành thâm dụng lao động có mức độ tinh vi và cơ hội đa dạng hóa thấp sang những ngành có mức độ tinh vi và cơ hội đa dạng hóa cao hơn (điện tử, cơ khí, đồ gỗ…). Xem những ngành này là nền tảng cho tăng trưởng xuất khẩu của TP trong thời gian tới.
Mặt khác, nâng cấp và hoàn thiện mạng lưới cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu, bao gồm cả hạ tầng giao thông kết nối, hạ tầng cảng biển, làm rõ định hướng phát triển cảng biển trong vùng, hoàn thiện tuyến đường Vành đai 2 và đầu tư tuyến đường Vành đai 3. Cải cách, nâng cao chất lượng các dịch vụ công liên quan trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn theo hướng cung ứng dịch vụ tốt nhất có thể chứ không chỉ dừng lại là cung ứng theo đúng quy định.
TPHCM cũng đặt ra nhiệm vụ đến năm 2030, xây dựng chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu tiêu biểu gồm: sản phẩm hữu hình (điện tử, cơ khí lắp ráp, chế tạo, tự động hóa, quang học), đặc biệt là các sản phẩm phần mềm - nội dung số và xuất khẩu dịch vụ (tài chính, du lịch, logistics), bởi đây là các ngành động lực mới cho tăng trưởng xuất khẩu trong dài hạn. Chuyển dịch các nhóm ngành truyền thống thâm dụng lao động ra khu vực ngoại vi gồm: dệt may, da giày, chế biến thực phẩm, cao su, hóa chất, đồng thời kết hợp đẩy nhanh ứng dụng tự động hóa để thay thế dần vai trò của lao động phổ thông.
TP.HCM cũng đẩy mạnh thu hút đầu tư và phát triển các nhóm ngành xuất khẩu dịch vụ (tài chính, ngân hàng, logistics). Xây dựng và hình thành các trung tâm dịch vụ logistics tại TP có tính đồng bộ trong kết nối và phục vụ lưu chuyển hàng hóa của cả vùng phía Nam. Hoàn thiện mạng lưới cơ sở hạ tầng, đầu tư đường Vành đai 4 và làm rõ chiến lược trong phát triển cảng hàng không Tân Sơn Nhất và cảng hàng không Long Thành. Dịch chuyển cảng biển nội ô ra khu vực Cái Mép - Thị Vải hoặc Hiệp Phước tùy vào chiến lược đã lựa chọn.
Về nguồn nhân lực, TP.HCM xây dựng chiến lược đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chuyên về cung cấp dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu và lao động có kỹ năng, xuất khẩu dịch vụ, hàng hóa vô hình. Đẩy mạnh mô hình đào tạo nhân lực tại DN và đào tạo nhân lực chất lượng cao tại các cơ sở giáo dục uy tín đối với các nhóm ngành công nghệ thông tin, điện tử, cơ khí chế tạo, thiết kế mẫu mã.