![]() |
Kiều hối là một nguồn thu nhập quốc dân, thể hiện trong Bảng cân đối tài sản quốc gia. Kiều hối là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều gia đình, đồng thời cũng là nguồn vốn ngoại tệ quan trọng đảm bảo cán cân thanh toán, tác động đến cung cầu ngoại tệ của một nền kinh tế...
Nếu như trước đây, nguồn kiều hối được chuyển về Việt Nam chủ yếu được sử dụng cho tiêu dùng cá nhân thì trong những năm gần đây đã có những thay đổi rõ rệt. Kiều hối chuyển về nước được đầu tư nhiều hơn vào bất động sản, chứng khoán, cổ phiếu, mở doanh nghiệp, sử dụng cho sản xuất kinh doanh và dịch vụ… Do đó, trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa về mặt kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, việc nhận dạng chính xác các nguồn kiều hối để chủ động điều hành các chính sách tài chính, chính sách tiền tệ hiệu quả, có các cơ chế quản lý phù hợp có vị trí vô cùng quan trọng.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB): “Kiều hối bao gồm các khoản tiền chuyển từ nước ngoài có nguồn gốc là thu nhập của người lao động, dân di cư ở nước ngoài, được thể hiện trong cán cân thanh toán quốc tế là khoản chuyển tiền (ròng)”. Kiều hối phụ thuộc khá lớn vào chính sách tiền tệ và chính sách tài chính, bên cạnh đó là chính sách cho vay người đi xuất khẩu lao động của Ngân hàng Chính sách xã hội. Tuy nhiên, trong năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, số người đi xuất khẩu lao động chắc chắn bị giảm sút.
Theo WB, lượng kiều hối về Việt Nam đạt 16,7 tỷ USD trong năm 2019, tăng 6,4% so với năm 2018 (năm 2018 là 15,9 tỷ USD và 2017 là 13,8 tỷ USD). Tuy nhiên, lượng kiều hối năm 2020 sẽ khó vượt qua con số 10 tỷ USD. Sự sụt giảm nguồn cung ngoại tệ này về mặt lý thuyết ảnh hưởng lớn đến tỷ giá và nguồn trả nợ nước ngoài của Chính phủ Việt Nam. Song theo dõi diễn biến này từ đầu năm 2020 đến nay cho thấy, kiều hối chưa tác động đến điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài chính. Trong 7 tháng qua tỷ giá vẫn ổn định, nguồn trả nợ nước ngoài vẫn theo kế hoạch của Bộ Tài chính.
Một số giải pháp khuyến nghị đã được đưa ra. Về chính sách lãi suất, trong giai đoạn lãi suất tiền gửi ngoại tệ và tiền gửi VND ở Việt Nam lên cao, có khoản tiền không nhỏ ở nước ngoài được chuyển về đầu tư trên thị trường tiền gửi ngân hàng trong nước. Về nguyên tắc, tiền chuyển về sau đó bằng nhiều cách khác nhau, có một tỷ trọng đáng kể được chuyển lại nước ngoài, hay để lại Việt Nam để đầu tư, mua tài sản. Hiện nay, Chính phủ Việt Nam kiên định mục tiêu chống đô la hóa nền kinh tế, lãi suất tiền gửi USD bằng không (0%), đồng thời lãi suất tiền gửi VND đang đi dần vào thế ổn định, do đó, việc trông chờ vào sự thay đổi chính sách lãi suất để thu hút được kiều hối là không thể.
Về chính sách tỷ giá, cũng với mục tiêu kiên định giảm tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế, Chính phủ Việt Nam không khuyến khích gửi ngoại tệ vào ngân hàng thương mại lấy lãi, không khuyến khích găm giữ, hay cất trữ bằng ngoại tệ. Bên cạnh đó, với mục tiêu điều hành của Ngân hàng Nhà nước là ổn định tỷ giá, nâng cao vị thế VND, tỷ giá VND/USD trong ba năm gần đây chỉ tăng 1-2%/năm và dự báo trong một số năm tới cũng vẫn nằm trong biên độ đó. Bởi vậy, cũng không thể kỳ vọng vào chính sách tỷ giá để thu hút kiều hối.
Về chính sách tài chính và dịch vụ ngân hàng, người nhận kiều hối không phải nộp thuế thu nhập, người gửi chuyển cho loại ngoại tệ nào người nhận được nhận loại ngoại tệ đó, không bắt buộc phải bán cho ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại đang cạnh tranh mạnh mẽ với nhau để mở rộng dịch vụ kiều hối. Nhiều ngân hàng thương mại còn có dịch vụ chuyển kiều hối cho người nhận tại địa chỉ gia đình, tại nhà… Do đó, có thể khẳng định không còn dư địa để điều chỉnh chính sách tài chính - tiền tệ về khuyến khích kiều hối.
Trong bối cảnh trên, một số giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn kiều hối đã được đề xuất bao gồm:
1. Cần có các chính sách và cơ chế cụ thể thu hút vốn FDI nói chung và vốn của người Việt Nam nói riêng đầu tư mua cổ phần doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, mua cổ phần trong các doanh nghiệp mà Nhà nước thoái vốn.
2. Chính phủ cần tiếp tục đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, giảm tỷ trọng sở hữu của nhà nước trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa, kể cả tại các ngân hàng thương mại nhà nước đã được cổ phần hóa; đảm bảo sự phát triển minh bạch của thị trường chứng khoán, xử lý thật nghiêm những hành vi cố ý vi phạm, thao túng, trục lợi trên thị trường này.
3. Các chính sách của Chính phủ cần phải theo hướng tạo điều kiện thu hút mọi nguồn vốn đầu tư, kể cả nguồn tiền của người Việt Nam ở nước ngoài phát triển bền vững thị trường bất động sản.
4. Chính sách xuất khẩu lao động gắn liền với đổi mới chính sách giáo dục và đào tạo: Chính sách xuất khẩu lao động cần có sự vào cuộc một cách đồng bộ từ Chính phủ đến các bộ ngành trong các đàm phán, hợp tác trong các hiệp định song phương và đa phương, trong các hoạt động xúc tiến phát triển thị trường lao động. Kèm theo đó là các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường xuất khẩu lao động mới, khai thông những lực cản tại các thị trường truyền thống cũng như các biện pháp khác bảo vệ quyền lợi người lao động.
Bên cạnh đó, cần mở rộng chính sách tín dụng ưu đãi dành cho người đi xuất khẩu lao động. Chính phủ cần gia tăng quy mô và hằng năm chủ động bố trí riêng nguồn vốn cho người lao động vay để đi xuất khẩu lao động nước ngoài tại Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, bao gồm cả cả tiền vay đi học tiếng, đi học nghề, tiền đặt cọc, tăng mức được vay, tăng thời hạn vay và linh hoạt trong xử lý rủi ro tín dụng lĩnh vực này.
Chính phủ cần tập trung các chương trình, dự án có tính chất đào tạo nghề, có tính chất ưu đãi... vào Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam để mở rộng tín dụng xuất khẩu lao động và tín dụng sinh viên.
Các tỉnh, thành phố trong vùng trọng điểm kinh tế phía Nam nên bố trí thêm nguồn vốn ngân sách nhà nước ở địa phương chuyển qua Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam để cho vay sản xuất kinh doanh vùng khó khăn, nâng mức cho vay hộ nghèo, hộ đi xuất khẩu lao động.