Để nâng cao giá trị doanh nghiệp ngành dệt may
Chuyện làm ăn - Ngày đăng : 09:17, 13/04/2018
Ảnh: Quý Hòa |
Thông tin thị trường là dữ liệu quan trọng cho các ý tưởng thiết kế, nguồn nguyên liệu vừa là yếu tố ràng buộc, vừa là tác nhân được sáng tạo của thiết kế sản phẩm. Chất lượng của thiết kế định hướng cắt may, phân phối và thương hiệu, góp phần quan trọng chuyển từ CMT (phương thức gia công cắt may đơn giản) sang ODM (phương thức gia công hiện đại).
Chuỗi giá trị của ngành bao gồm các khâu thương hiệu đến thiết kế, tìm nguồn cung ứng nguyên liệu, cắt may, marketing và phân phối. Rất ít doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh hầu hết các khâu, bởi tính chuyên môn hóa khác nhau. Thiết kế là khâu quan trọng nhất, quyết định phần lớn giá trị gia tăng và tự chủ của doanh nghiệp ngành may.
Không làm chủ được khâu thiết kế, doanh nghiệp chỉ tham gia vào khâu cắt may với lao động giản đơn, giá trị gia tăng thấp. Các quốc gia có ngành dệt may phát triển không còn thực hiện các công đoạn này, mà hợp đồng gia công cho các quốc gia có nguồn lao động giá rẻ và việc sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào chưa phát triển như Bangladesh, Việt Nam, Pakistan.
Dệt may là ngành có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 2 của Việt Nam (chiếm 16% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, chỉ đứng sau nhóm điện thoại di động và linh kiện), trong đó, 50% xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Dệt may trở thành ngành đứng thứ 2 về tạo nhiều việc làm (2,5 triệu lao động năm 2016), đứng thứ 6 thế giới về kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, chủ yếu hoạt động ở công đoạn cắt may với giá trị gia tăng thấp, xuất khẩu qua trung gian các đại diện thương mại, chưa chủ động được nguyên liệu, nhãn hiệu.
Hiệp định CPTPP có hiệu lực, thuế xuất khẩu giảm nhưng phải thỏa mãn các điều kiện về xuất xứ nội khối, cam kết về lao động, môi trường, là các điều kiện mà doanh nghiệp dệt may Việt Nam khó đáp ứng. Hơn nữa, phần ưu đãi về giảm thuế có khi là cái cớ để các đại diện thương mại ép giá xuất khẩu.
Hoạt động chủ yếu là khâu cắt may nên các doanh nghiệp thường cạnh tranh về giá gia công. Các đại diện thương mại nước ngoài ở Việt Nam thường xuyên ép giá trong khi doanh nghiệp Việt Nam không làm chủ được khâu thiết kế, không sáng tạo được mẫu mã nên mất vị thế trong đàm phán.
Mặc khác, do không chủ động được khâu thiết kế nên không chủ động được nguồn nguyên liệu, phải sử dụng nguồn nguyên liệu của đối tác hoặc mua theo chỉ định của đối tác nên thường có giá cao.
Tồn tại này có phần nguyên nhân khách quan do phân công lao động trong chuỗi giá trị ngành may đã được định hình từ sớm. Theo đó, các quốc gia đi trước như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản chủ yếu tập trung vào khâu mang lại giá trị gia tăng cao nhất: thiết kế, marketing và phân phối, trong khi đó, sản xuất tập trung tại Trung Quốc, Ấn Độ và các quốc gia đang phát triển như Bangladesh, Việt Nam, Pakistan, Indonesia...
Hệ thống các nhà buôn là tại Hong Kong, Hàn Quốc, Đài Loan kết nối các công ty sản xuất với người tiêu dùng cuối. Các doanh nghiệp Việt Nam khó lòng thay đổi sự phân công trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành may mặc.
Mặc khác, việc làm chủ khâu thiết kế đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư xây dựng thương hiệu và hệ thống phân phối. Hệ thống phân phối không chỉ là nơi bán hàng mà còn là một kênh trải nghiệm thị trường để nắm bắt nhu cầu của khách hàng.
Thông tin từ khách hàng là dữ liệu đầu vào cho thiết kế, đồng thời thiết kế được củng cố bởi marketing nhằm định hướng nhu cầu, tạo xu thế thời trang cho thị trường để tiêu thụ sản phẩm được thiết kế. Muốn làm được như vậy, đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư nhân lực chất lượng cao và làm tốt marketing. Đây là trở ngại lớn cho những doanh nghiệp Việt Nam muốn làm chủ khâu thiết kế.
Thiết kế không đơn thuần chỉ là các bản vẽ sản phẩm, cũng không đơn giản chỉ là việc tạo ra ý tưởng cho những sản phẩm độc đáo. Thành công của thiết kế là sản phẩm tạo ra có khả năng định hướng trào lưu tiêu dùng, thu hút được khách hàng tìm mua sản phẩm. Theo đó, đi kèm với thiết kế là thông tin về xu hướng tiêu dùng, chiến dịch marketing và hệ thống phân phối.
Để nắm bắt được nhu cầu, xu hướng tiêu dùng cần có đội ngũ nghiên cứu thị trường năng động, thường xuyên có những đánh giá và dự báo nhu cầu.
Đội ngũ này được kết nối chặt chẽ với đội ngũ thiết kế để phát triển sản phẩm phù hợp với nhu cầu khách hàng. Sản phẩm được thiết kế chỉ tạo hiệu ứng khi đi kèm với marketing để phát đi tín hiệu sản phẩm mới đến với khách hàng tiềm năng. Khi khách hàng biết được thông tin tìm mua sản phẩm thì phải có hệ thống phân phối sản phẩm.
Sản phẩm được thiết và phân phối thành công là một minh chứng để thuyết phục các đối tác thương hiệu, nhà phân phối đặt hàng sản xuất. Khi đó, xuất khẩu theo phương thức bán gói thiết kế, nguyên liệu và cắt may cũng dễ dàng thực hiện.
Thuyết phục được khách hàng sử dụng được thiết kế của công ty sẽ dễ dàng chủ động lựa chọn nhà cung cấp nguyên liệu phù hợp. Và như vậy cũng có được vị thế đàm phán với các nhà cung cấp nguyên vật liệu, mua được nguyên liệu với giá thấp hơn, hiệu quả kinh doanh cũng cao hơn.