Những hệ lụy từ lệnh cấm nhập khẩu dầu Nga của châu Âu
Quốc tế - Ngày đăng : 08:00, 02/06/2022
Ảnh đồ họa mô hình một van đường ống dẫn dầu đặt trên nên cờ EU (bên trái) và cờ Nga (bên phải). Ảnh: Reuters |
Vào những năm 1970, các quốc gia Ả Rập từng sử dụng "vũ khí dầu mỏ" để trừng phạt chính phủ các nước phương Tây vì đã hỗ trợ cho Israel. Đến ngày 30/5/2022, vũ khí này lại được EU sử dụng trong vòng trừng phạt mới nhất nhắm vào Nga.
"Thống nhất cấm nhập khẩu dầu Nga vào EU. Điều này sẽ ngay lập tức có hiệu lực với 2/3 lượng nhập khẩu dầu từ Nga, cắt đứt nguồn tài chính khổng lồ cho cỗ máy chiến tranh của họ. Gây áp lực tối đa lên Nga để kết thúc xung đột", Chủ tịch Hội đồng châu Âu (EC) Charles Michel viết trên Twitter ngày 30/5 sau cuộc họp của EC tại Brussels, Bỉ.
Theo đó, EU sẽ cấm mua dầu thô và các sản phẩm dầu mỏ tinh chế từ Nga, chẳng hạn như dầu diesel, vào cuối năm nay. EU cho biết sẽ có một sự miễn trừ "tạm thời" với dầu được vận chuyển qua đường ống. Sau thông tin trên, giá dầu Brent tăng trên 120 USD/thùng, vọt lên mức cao nhất kể từ tháng 3, trước khi hạ nhiệt về quanh 117 USD/thùng.
Về lý thuyết, hành động của EU rất có ý nghĩa, khi là minh chứng cho sự đoàn kết và sự sẵn sàng chịu đựng tổn thất kinh tế để trừng phạt Nga. Đồng thời, EU cũng qua đó mà xem như cắt đứt một trong số ít các quan hệ thương mại còn lại với Điện Kremlin.
Trên thực tế, EU vốn mua khoảng 50% lượng dầu xuất khẩu của Nga - một trong những nguồn thu ngoại tệ sinh lợi nhất của nước này. Dù vậy, có nhiều lý do để hoài nghi rằng quyết định nói trên sẽ làm Nga mất ngoại tệ đến mức nào.
Trước hết, lệnh cấm chỉ áp dụng với dầu vận chuyển bằng đường biển. Việc loại trừ dầu vận chuyển bằng đường ống là cần thiết để đạt thỏa hiệp với Hungary - nước vừa có thiện cảm với Nga hơn hầu hết thành viên EU, vừa phụ thuộc rất nhiều vào đường ống Druzhba từ thời Liên Xô. Hungary nhập khoảng 65% lượng dầu thô từ Nga.
Do đó, lệnh cấm có thể sẽ có tác động hạn chế đến thị trường dầu mỏ và có thể không tạo ra quá nhiều biến động. Bởi các tàu chở dầu trước đó đã từ chối chở hàng cho Nga do lo lắng bị ảnh hưởng đến uy tín.
Bên cạnh đó, các tổ chức tài chính phương Tây cũng đã từ chối cấp bảo hiểm cho các hợp đồng vận chuyển dầu Nga. Các công ty bảo hiểm hàng hải có trụ sở tại các nước đồng minh của Nga có thể thay thế một phần, nhưng năng lực tài chính của họ hạn chế hơn nhiều.
Vậy, câu hỏi đặt ra là liệu dầu thô của Nga, một khi đã bị trừng phạt, có bán được không? Hiện, xuất khẩu dầu của Nga đã lên mức hơn trước khi bị trừng phạt. Theo JPMorgan Chase, hầu hết xuất khẩu dầu thô của Nga được chuyển đến Ấn Độ - nơi không ban hành lệnh trừng phạt.
Theo nhà phân tích của ngân hàng đầu tư Raymond James (Mỹ) Pavel Molchanov, vì EU chỉ cấm dầu Nga giao bằng tàu nên ít nhất thị trường toàn cầu hiện có thể điều chỉnh bằng cách định tuyến lại các chuyến hàng đường biển.
Tức là, thay vì vận chuyển dầu sang châu Âu, Nga sẽ đẩy mạnh các chuyến hàng sang thị trường khác như Trung Quốc, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ. Đổi lại, các nước đó sẽ mua ít dầu hơn từ Trung Đông, để dầu từ khu vực này chảy về châu Âu nhiều hơn. Rốt cục, sẽ không có sự thay đổi quá nhiều về nguồn cung ban đầu, mà chỉ có sự khác nhau về dòng chảy.
vì EU chỉ cấm dầu Nga giao bằng tàu nên ít nhất thị trường toàn cầu hiện có thể điều chỉnh bằng cách định tuyến lại các chuyến hàng đường biển. |
Vậy, trong tương lai liệu châu Âu có cấm dầu đường ống của Nga hay không. Thực tế, Ba Lan và Đức dự định ngừng nhập khẩu qua đường ống Druzhba, song Hungary khó có khả năng đồng ý và Thủ tướng Hungary Viktor Orban đã thể hiện sự sẵn sàng để ngăn chặn các quyết định của EU. Nhờ dầu Urals của Nga giảm giá đáng kể so với dầu Brent mà Mol - một tập đoàn dầu của Hungary, đã ghi nhận biên lợi nhuận tăng vọt.
Tuy nhiên, lệnh cấm vận của EU chỉ là một trong nhiều lý do khiến giá dầu tăng vọt. Vấn đề cơ bản là nguồn cung thị trường đang thắt chặt. Nhu cầu về nhiên liệu tăng mạnh khi đại dịch giảm; người tiêu dùng bắt đầu lái xe và bay trở lại. Việc Trung Quốc nới lỏng các hạn chế chống dịch trong những ngày gần đây cũng làm tăng cơn khát dầu.
Trong khi đó, OPEC và các đồng minh gồm Nga (OPEC+) ít có dấu hiệu muốn tăng sản lượng. Ở cuộc họp ngày 2/6/2022, OPEC+ dự kiến không công bố bất kỳ thay đổi nào với kế hoạch tăng dần nguồn cung lên mức trước đại dịch.
Nguồn cung eo hẹp và nhu cầu tăng dẫn đến kết quả người tiêu dùng phải trả giá cao hơn. Tệ hơn nữa, tình trạng thiếu công suất nhà máy lọc dầu ở Mỹ đã khiến giá xăng và dầu diesel tăng mạnh. Ngoài ra, theo Francisco Blanch - Trưởng nghiên cứu hàng hóa và sản phẩm phái sinh của Bank of America Global Research, đồng USD mạnh lên cũng làm tăng chi phí cho châu Âu và các thị trường mới nổi.
Lệnh cấm vận của các quốc gia Ả Rập những năm 1970 đã gây nỗi đau ngắn hạn cho phương Tây, song cũng thúc đẩy động lực tiết kiệm nhiên liệu, khiến họ cuối cùng giảm bớt sự phụ thuộc vào dầu mỏ. Nên, EU ngày nay cũng có thể hy vọng nỗi đau ngắn hạn với người tiêu dùng xứng đáng với lợi ích lâu dài về an ninh năng lượng.