GS-TS. Nguyễn Thị Thanh Mai - Giám đốc Đại học Quốc gia TP.HCM: “Đại học phải thay đổi cách tiếp cận đào tạo nguồn nhân lực”
Với vai trò người đứng đầu Đại học Quốc gia TP.HCM, GS-TS. Nguyễn Thị Thanh Mai cho rằng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại TP.HCM không thể nhìn theo cách thông thường.
Cụ thể, bà cho rằng: Khác với mô hình đào tạo đơn lẻ của từng trường, Đại học Quốc gia TP.HCM được tổ chức như một hệ thống đại học nghiên cứu, được thiết kế để giải quyết các bài toán lớn của quốc gia và của một đô thị đặc biệt như TP.HCM. Chính vì vậy, hoạt động đào tạo phải bám sát sự chuyển dịch của nền kinh tế và nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và phải chuẩn bị nguồn nhân lực cho tương lai của Thành phố và của đất nước. Điều đó đòi hỏi đại học phải thay đổi cách tiếp cận: Từ dạy kiến thức sang phát triển năng lực; từ đào tạo đơn ngành sang liên ngành; từ giảng đường khép kín sang gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp và xã hội.
* Theo bà, đâu là những điểm nghẽn lớn nhất hiện nay trong tiến trình đào tạo?
- Nếu nhìn dưới “lăng kính đột phá” thì yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực không dừng ở việc “đủ khả năng” mà là phải tạo ra bước nhảy. Và ở góc độ đó, giáo dục đại học hiện nay vẫn còn những điểm nghẽn.
Điểm nghẽn thứ nhất là mức độ tự chủ của nhiều cơ sở giáo dục đại học hiện vẫn bị giới hạn bởi các thủ tục tài chính, đầu tư, mua sắm, chưa phù hợp với đặc thù của một đơn vị nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo. Nghị quyết 57 nhấn mạnh yêu cầu “thể chế phải đi trước một bước”, loại bỏ tư duy “không quản được thì cấm”. Nhưng nhiều cơ chế như đặt hàng nghiên cứu, khoán chi, chia sẻ lợi ích từ chuyển giao công nghệ vẫn chưa đủ linh hoạt để doanh nghiệp yên tâm đầu tư sâu cùng đại học.

Điểm nghẽn thứ hai là chương trình và phương thức đào tạo hiện vẫn nặng về truyền thụ kiến thức, nhẹ về phát triển năng lực, đặc biệt là năng lực số, tư duy dữ liệu và năng lực liên ngành. Khảo sát doanh nghiệp cho thấy họ mong muốn người tốt nghiệp “tăng thêm một bậc” so với chuẩn hiện tại. Điều đó phản ánh khoảng cách khá lớn giữa chuẩn đầu ra của nhiều ngành đào tạo và yêu cầu của các doanh nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế số và kinh tế xanh.
Điểm nghẽn thứ ba là hạ tầng và đội ngũ nghiên cứu ở các lĩnh vực chiến lược. Mặc dù chúng ta đã có kế hoạch đầu tư các phòng thí nghiệm tích hợp về trí tuệ nhân tạo, vi mạch bán dẫn, công nghệ sinh học, năng lượng mới… nhưng nhiều hạng mục vẫn đang trong quá trình xây dựng, chưa trở thành nơi hội tụ các dự án R&D lớn cùng doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các trường đại học công, trong đó có Đại học Quốc gia TP.HCM, đang gặp bất lợi khi cạnh tranh nhân lực trình độ cao với các tập đoàn lớn và các đại học quốc tế. Nếu TP.HCM không có thông điệp đủ mạnh, đủ rõ về môi trường làm việc, đãi ngộ và không gian sáng tạo, thì rất khó tận dụng được làn sóng này.
Điểm nghẽn thứ tư là liên kết ba nhà: nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp vẫn còn khá manh mún. Phần lớn mới dừng ở ký kết hợp tác, tham quan, thực tập ngắn hạn. Việc cùng thiết kế chương trình đào tạo, cùng giảng dạy, cùng đầu tư phòng thí nghiệm và cùng làm nghiên cứu chiều sâu vẫn chưa đạt tới mức cần thiết.
* Trong mối liên kết đó, từ phía cơ sở đào tạo, cụ thể là Đại học Quốc gia TP.HCM đã khảo sát nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp như thế nào, thưa bà?
- Năm 2025, chúng tôi triển khai một đề án khảo sát quy mô lớn, gần 2.000 doanh nghiệp tại sáu địa phương, bao gồm TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương (nay là TP.HCM), Bà Rịa - Vũng Tàu (nay là TP.HCM), Bình Thuận, Hậu Giang và Cà Mau cho thấy ba xu hướng lớn nổi bật. Thứ nhất, nhu cầu nhân lực lớn nhất của doanh nghiệp vẫn tập trung vào các lĩnh vực cốt lõi như kỹ thuật - công nghệ, sản xuất - chế biến, kinh doanh và quản lý.

Xu hướng thứ hai là sự chuyển dịch rất mạnh của doanh nghiệp sang các lĩnh vực thuộc kinh tế số và kinh tế xanh. Các ngành được nhắc đến nhiều nhất gồm trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, quản lý dữ liệu, thương mại điện tử, quản lý chuỗi cung ứng, công nghệ tài chính, công nghệ sinh học và năng lượng mới. Có thể nói đây là một cụm công nghệ chiến lược, trùng khớp với những lĩnh vực mà Nghị quyết 57 xác định là ưu tiên quốc gia. Doanh nghiệp không chỉ cần lao động kỹ thuật đơn thuần, mà cần nguồn nhân lực có năng lực số, tư duy dữ liệu, khả năng làm việc trong môi trường công nghệ cao và có khả năng thích ứng nhanh với thay đổi.
Xu hướng thứ ba, và cũng là điểm rất đáng suy nghĩ đối với các trường đại học là doanh nghiệp ngày càng đánh giá cao thái độ nghề nghiệp của người lao động, thậm chí cao hơn cả kiến thức và kỹ năng chuyên môn.
Tuy nhiên, cả ba yếu tố: Kiến thức, kỹ năng và thái độ, hiện nay mới chỉ được doanh nghiệp đánh giá ở mức trung bình khá. Doanh nghiệp mong muốn “nâng một bậc”, từ mức 3 lên mức 4 trên thang 5 điểm.
Với sinh viên tốt nghiệp, doanh nghiệp cũng kỳ vọng người học có năng lực số, ngoại ngữ, tư duy phản biện, kỹ năng làm việc nhóm, kỷ luật nghề nghiệp và đặc biệt là năng lực đổi mới sáng tạo. Đây không phải là những kỹ năng “bổ trợ”, mà đang trở thành năng lực cốt lõi của nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên số và kỷ nguyên xanh. Tinh thần này hoàn toàn phù hợp với Nghị quyết 57 và Nghị quyết 71, trong đó nhấn mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện tiên quyết để chuyển dịch mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.
* Hiện, Đại học Quốc gia TP.HCM đã điều chỉnh chiến lược đào tạo ra sao, thưa bà?
- Những xu hướng này đã được chúng tôi cụ thể hóa trong chiến lược phát triển giai đoạn 2026 - 2030. Trước hết, Đại học Quốc gia TP.HCM sẽ tăng mạnh tỷ lệ các chương trình giảng dạy bằng tiếng Anh, nhằm chuẩn bị cho người học khả năng hội nhập quốc tế ngay từ môi trường đào tạo.

Song song đó, đầu tư đồng bộ hạ tầng phòng thí nghiệm cho các công nghệ chiến lược và gắn tối thiểu 50% chương trình đào tạo với các học phần có sự tham gia trực tiếp của doanh nghiệp, thông qua thực hành nghề nghiệp, dự án thực tế và đồng thiết kế chương trình. Chúng tôi đang xây dựng các cụm phòng thí nghiệm tích hợp về toán, trí tuệ nhân tạo, vi mạch bán dẫn, công nghệ sinh học và năng lượng mới để tạo nền tảng để kết nối nghiên cứu - phát triển với doanh nghiệp.
Ngoài ra, để xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo thực sự, TP.HCM không thể chỉ dựa vào nguồn nhân lực trình độ đại học. Trong chiến lược mới, Đại học Quốc gia TP.HCM đặt mục tiêu tăng quy mô đào tạo sau đại học lên gấp 3-4 lần so với hiện nay. Nguồn nhân lực trình độ cao này là lực lượng nòng cốt cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế dựa trên khoa học - công nghệ và chuyển đổi số thành công.
* Bà từng nói rằng nhiều nhà khoa học vẫn đang làm việc khá “cô đơn”…?
- Đây là thực tế tồn tại khá lâu. Phần lớn các nhà khoa học trong trường đại học vẫn làm việc theo nhóm nhỏ, thậm chí cá nhân, chủ yếu xoay quanh sở trường nghiên cứu của mình và phục vụ đào tạo. Cách làm này có thể tạo ra công bố khoa học, nhưng rất khó tạo ra những nghiên cứu lớn, có khả năng đi vào cuộc sống hoặc giải quyết các bài toán phát triển.
Trong khi đó, xu hướng toàn cầu hiện nay là nghiên cứu liên ngành, đa ngành và hợp tác quy mô lớn. Nghị quyết 57 đưa ra tầm nhìn rất đúng, nhưng để đi nhanh và có đột phá thì cần phải tái cấu trúc cách tổ chức nghiên cứu ngay từ bây giờ.

* Đại học Quốc gia TP.HCM đang làm gì để thay đổi cách làm đó?
- Lợi thế của chúng tôi là một hệ thống đại học. Trong cùng một lĩnh vực, mỗi trường thành viên đều có những nhóm nghiên cứu riêng. Vai trò của Đại học Quốc gia là tập hợp các nhóm đó lại, tạo thành sức mạnh hệ thống.
Ví dụ, với lĩnh vực công nghệ sinh học, chúng tôi đã tổ chức một hội thảo cấp quốc gia, quy tụ khoảng 250 nhà khoa học trình độ tiến sĩ trong hệ thống và các lĩnh vực liên quan như trí tuệ nhân tạo. Từ đó, chúng tôi cùng nhau xây dựng chiến lược với 10 hướng nghiên cứu trọng tâm, tập trung nguồn lực để tạo ra sản phẩm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Cách làm này đang được triển khai theo từng lĩnh vực, với mục tiêu hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh, đủ khả năng đề xuất và thực hiện các nhiệm vụ khoa học - công nghệ lớn.
* Làm thế nào để tinh thần đó được nhân rộng cho thế hệ nhà khoa học trẻ hiện nay, theo bà?
- Thế hệ trẻ hiện nay có nhiều điều kiện hơn chúng tôi trước đây. Vấn đề là phải kết nối họ lại với nhau, tạo không gian và nguồn lực để họ làm việc theo nhóm, theo chương trình lớn.
Ở vai trò lãnh đạo Đại học Quốc gia TP.HCM, chúng tôi đang nỗ lực tìm kiếm mọi nguồn lực, trong và ngoài nước, để hỗ trợ các nhà khoa học. Tôi tin rằng, với tinh thần của Nghị quyết 57 trong giai đoạn tới, nguồn lực cho khoa học - công nghệ sẽ được cải thiện rõ rệt, nếu đi kèm với cơ chế phù hợp.

* Trong ngắn hạn và dài hạn, Đại học Quốc gia TP.HCM sẽ làm gì để trở thành đại học hàng đầu, đóng vai trò hạt nhân phát triển của TP.HCM và cả nước?
- Trong sáu tháng qua, chúng tôi đã làm việc rất quyết liệt để xây dựng chiến lược 5 năm, tập trung vào hai nhiệm vụ lớn: Đào tạo và khoa học - công nghệ gắn với đổi mới sáng tạo. Về đào tạo, chúng tôi đặt mục tiêu tăng tỷ lệ đào tạo sau đại học lên khoảng 30%, điều chỉnh mạnh chương trình theo hướng học tập trải nghiệm, cá nhân hóa người học và gắn chặt với doanh nghiệp.
Về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, chúng tôi tái cấu trúc hoạt động nghiên cứu theo nhóm và chủ đề trọng tâm của thành phố và quốc gia. Đồng thời, Đại học Quốc gia TP.HCM được giao nhiệm vụ phối hợp với TP.HCM xây dựng không gian đổi mới sáng tạo, với hạt nhân đặt tại Đại học Quốc gia.
Đây là bài toán rất khó, bởi còn nhiều vướng mắc về thể chế và cơ chế hợp tác. Nhưng nếu không bắt đầu từ bây giờ, thì TP.HCM sẽ khó có được hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đủ mạnh để cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới.
* Xin cảm ơn bà về những chia sẻ!
Ngày 15/12/2025, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 2729/QĐ-TTg bổ nhiệm Nhà giáo Ưu tú, GS-TS Nguyễn Thị Thanh Mai giữ chức vụ Giám đốc Đại học Quốc gia TP.HCM. Với quyết định này, GS-TS Nguyễn Thị Thanh Mai trở thành nữ Giám đốc đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống đại học lớn nhất cả nước.
Bà Mai sinh năm 1974 tại tỉnh Quảng Ngãi. Bà tốt nghiệp cử nhân Hóa học năm 1996 và thạc sĩ Hóa học, chuyên ngành Hóa phân tích, năm 2001 tại Trường Đại học Tổng hợp TP.HCM (nay là Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia TP.HCM). Năm 2002, bà sang Nhật Bản học nghiên cứu sinh tại Trường Đại học Y Dược Toyama và nhận bằng Tiến sĩ Dược học vào năm 2005.
Sau khi hoàn thành chương trình đào tạo tiến sĩ, bà trở về nước công tác tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên và gắn bó lâu dài với đơn vị này. Từ năm 2007, bà lần lượt đảm nhiệm nhiều vị trí quản lý quan trọng như Trưởng bộ môn, Phó Trưởng khoa, Trưởng khoa Hóa học. Năm 2021, bà được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Tự nhiên và từ năm 2022 kiêm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng Trường Phổ thông Năng khiếu - đơn vị đào tạo mũi nhọn của Đại học Quốc gia TP.HCM.
Về học hàm, bà Nguyễn Thị Thanh Mai được công nhận chức danh Phó Giáo sư năm 2014 và Giáo sư năm 2020; đến năm 2024, bà được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú. Tháng 6/2024, GS-TS. Nguyễn Thị Thanh Mai được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Đại học Quốc gia TP.HCM, phụ trách các lĩnh vực hợp tác quốc tế, quan hệ doanh nghiệp - địa phương và quản lý nhiệm vụ khoa học - công nghệ, trước khi được giao trọng trách Giám đốc.
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, GS-TS. Nguyễn Thị Thanh Mai là nhà khoa học uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu, phát triển thuốc từ dược liệu Việt Nam. Nhóm nghiên cứu do bà dẫn dắt đã phát triển thành công hai sản phẩm hỗ trợ điều trị ung thư đường tiêu hóa và viêm khớp từ nguồn dược liệu trong nước, có giá trị khoa học và tiềm năng ứng dụng cao. Đến nay, bà đã công bố hơn 80 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế uy tín.
Với các nghiên cứu về sản phẩm từ ong tại Việt Nam, nhóm của GS-TS. Thanh Mai đã giành Giải thưởng Quả cầu vàng năm 2017 và Giải thưởng Sáng tạo TP.HCM năm 2019. Năm 2021, bà được trao Giải thưởng Kovalevskaia - giải thưởng danh giá dành cho các nhà khoa học nữ có thành tích xuất sắc trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học.
Trên bình diện quốc tế, tháng 10/2025, tại Hội nghị lần thứ 17 của Viện Hàn lâm Khoa học Thế giới (TWAS) tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil), bà được công nhận là Viện sĩ TWAS, trở thành một trong những nữ khoa học Việt Nam đầu tiên đạt danh hiệu uy tín này.