TSKH.KTS Ngô Viết Nam Sơn: “Muốn chống ngập hiệu quả, phải có nhiều giải pháp chiến lược và bền vững"
Lữ Ý Nhi•26/12/2025 - 15:46
“Vấn đề ngập lụt đô thị không phải vô phương cứu chữa. Điều quan trọng là chúng ta phải thay đổi tư duy và hành động một cách khoa học, bài bản”, khẳng định của TSKH.KTS Ngô Viết Nam Sơn khi chia sẻ góc nhìn về thực trạng ngập úng ở TP.HCM cũng như các giải pháp chiến lược trong việc chống ngập hiệu quả, bền vững cho Thành phố.
* Thưa TSKH.KTS Ngô Viết Nam Sơn, ông đánh giá tình hình lún sụt và ngập úng hiện nay tại TP.HCM nghiêm trọng ra sao? Những khu vực nào đang chịu ảnh hưởng nặng nề nhất?
- Tình trạng ngập lụt ở TP.HCM và nhiều đô thị lớn đang ngày càng trầm trọng hơn trong vài năm trở lại đây. Biến đổi khí hậu là một phần nguyên nhân. Những cơn mưa “lịch sử” vốn vài chục năm mới xảy ra một lần thì nay xuất hiện thường xuyên hơn, lượng mưa lớn và thủy triều cũng thất thường hơn. Hầu như cứ mưa lớn là đường phố biến thành sông, nhiều nơi ngập nước kéo dài đến vài ngày, giao thông tê liệt.
“
Thành phố đang bị lún với tốc độ trung bình khoảng 3-5 cm mỗi năm, trong khi mực nước biển dâng chỉ khoảng 1 cm/năm. Điều này có nghĩa là nguy cơ ngập sẽ ngày càng gia tăng.
Đáng lo ngại hơn, các khu vực trũng thấp phía Nam Thành phố (quận 7, Nhà Bè, quận 8 trước kia…) và những vùng ven sông rạch là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do vừa chịu lún đất vừa chịu tác động của mưa lớn và triều cường. Bản thân khu nội thành TP.HCM cũng rất chật chội, bê tông hóa dày đặc, thiếu không gian thoát nước, nên hễ mưa to là ngập xảy ra trên diện rộng.
* Theo ông, quá trình đô thị hóa nhanh và quy hoạch thiếu bền vững đã góp phần thế nào vào tình trạng ngập hiện nay?
- Tốc độ đô thị hóa “nóng” đang vượt xa khả năng đáp ứng của hạ tầng. Ở các đô thị lớn gần như đường phố nào cũng có công trình mọc lên, trong khi hệ thống thoát nước không theo kịp đà phát triển đó. Nhiều dự án phát triển đô thị do tư nhân đầu tư thời kinh tế thị trường đã không tuân thủ đầy đủ quy hoạch, nhà đầu tư thiếu trách nhiệm xã hội, họ xây nhà bán nhanh để thu lợi nhưng đường xá, cống thoát nước và hạ tầng kỹ thuật lại làm không tới nơi tới chốn. Kết quả là người dân vào ở rồi mới thấy thiếu đường, thiếu cống, thiếu trường học, dịch vụ… càng làm trầm trọng thêm nguy cơ ngập úng.
TSKH. KTS Ngỗ Viết Nam Sơn
“
Nguyên nhân ngập úng tại TP.HCM còn do cách chúng ta quy hoạch và quản lý đô thị chưa coi trọng đầy đủ yếu tố môi trường.
Bên cạnh đó, việc bê tông hóa quá mức, lấp kênh rạch để lấy đất xây dựng và thói quen xả rác bừa bãi làm tắc nghẽn cống rãnh đã góp phần trực tiếp gây ngập nặng hơn. Tất cả những điều này đều xuất phát từ tư duy phát triển thiếu bền vững trước đây, khiến thành phố “thấm đâu vá đó” mà chưa giải quyết tận gốc vấn đề ngập.
* Nhìn lại, ông thấy những sai lầm lớn nào trong phát triển hạ tầng và cơ chế quản lý quy hoạch đã khiến tình trạng ngập thêm trầm trọng?
- Đầu tiên, quan niệm sai lầm là “hạ tầng theo sau”, chúng ta đã cho phép xây dựng đô thị mới hoặc chèn thêm cao ốc vào nội đô mà đường sá, cống thoát nước, công viên cây xanh không được làm trước cho đồng bộ. Như tôi đã đề cập, có nhiều khu đô thị vẽ quy hoạch thì đủ đường, công viên, cống rãnh... nhưng khi thực hiện thì nhà cửa được xây và bán xong xuôi còn hạ tầng lại bị bỏ khuyết. Ngay cả các khu trung tâm quận 1, quận 3 vốn trước đây ổn định, khi cho xây dày cao ốc, mật độ bê tông hóa tăng gấp 5-10 lần mà không nâng cấp hệ thống thoát nước tương ứng thì chính những khu “chỉnh trang” đó cũng bị ngập.
Thứ hai, cơ chế quản lý hiện nay còn bất cập, thiếu tính liên thông. Chẳng hạn, việc thẩm định đánh giá tác động môi trường của các dự án tách rời khỏi quy hoạch đô thị chung. Nhiều dự án riêng lẻ được phê duyệt nâng cao nền lên 1-2 mét, vô hình trung biến nơi đó thành “ốc đảo” cao ráo nhưng lại đẩy nước về các vùng thấp xung quanh, gây ngập lan rộng. Sau đó chính quyền lại phải tốn ngân sách nâng đường, làm thêm cống để chữa cháy hậu quả. Đây là hệ quả của việc quản lý phân mảnh. Cơ quan môi trường duyệt một đằng, cơ quan quy hoạch một nẻo, thiếu cái nhìn tổng thể nên hạ tầng chung bị phá vỡ tính đồng bộ.
* Trước thực trạng như vậy, ông đã đề xuất những giải pháp cụ thể nào để giải quyết vấn đề ngập lụt tại TP.HCM?
- Theo tôi, muốn chống ngập hiệu quả thì phải đồng thời triển khai nhiều giải pháp mang tính chiến lược và bền vững. Tôi xin chia sẻ một số hướng chính như sau:
Thứ nhất, cần ứng dụng công nghệ hiện đại và xây dựng một hệ sinh thái số cho quản lý đô thị. Tức là chúng ta phải số hóa, tích hợp các dữ liệu về đô thị để theo dõi và dự báo tình hình ngập một cách khoa học. Ví dụ, hoàn toàn có thể thiết lập hệ thống quan trắc đo lượng mưa rơi xuống, đo diện tích mặt đất đã bê tông hóa, độ dốc địa hình, dung tích sông hồ kênh rạch… rồi mô phỏng kịch bản thoát nước cho từng khu vực. Một hệ sinh thái số đồng bộ sẽ giúp các cơ quan chức năng liên thông dữ liệu, ra quyết định nhanh và chính xác hơn trong quy hoạch lẫn vận hành hạ tầng chống ngập. Hiện nay chúng ta nói nhiều về đô thị thông minh, chuyển đổi số, nhưng cần cụ thể hóa bằng việc xây dựng nền tảng dữ liệu dùng chung cho toàn thành phố, để mọi sở ngành, nhà khoa học và cả người dân có thể tham gia giám sát, quản lý vấn đề ngập trên cơ sở thông tin minh bạch, thời gian thực.
Thứ hai, quy hoạch phát triển đô thị theo hướng phân tán về các vùng cao hơn xung quanh thay vì dồn nén vào vùng trũng thấp. Việc TP.HCM mở rộng địa giới hành chính chính là cơ hội để tái định hướng phát triển không gian đô thị. Thay vì tiếp tục dồn dân cư và hoạt động vào khu nội thành vốn đã quá tải và dễ ngập, thành phố nên khuyến khích giãn dân, phát triển các cực đô thị mới ở vùng đất cao. Chẳng hạn, phía Bắc (Bình Dương cũ) có địa hình cao hơn hẳn và thuận lợi cho công nghiệp, công nghệ cao; phía Đông Nam (Bà Rịa - Vũng Tàu) là cửa ngõ biển quốc tế và có tiềm năng thành chuỗi đô thị du lịch ven biển. Nếu tập trung phát triển các khu vực này với hạ tầng giao thông kết nối tốt, chúng ta vừa tạo động lực kinh tế mới, vừa giúp giảm tải cho nội đô TP.HCM. Nói cách khác, đưa dân ra chỗ cao, giảm dân ở chỗ thấp là một giải pháp lâu dài để giảm rủi ro ngập do triều cường và mưa lớn trong tương lai.
Thứ ba, giảm mật độ xây dựng ở những vùng trũng thấp và tăng không gian dành cho nước. Ngập lụt đô thị sẽ không thể giải quyết nếu chúng ta tiếp tục phủ bê tông lên mọi bề mặt. Hiện nay tỷ lệ không gian xanh bình quân đầu người ở TP.HCM chỉ khoảng nửa mét vuông, trong khi tiêu chuẩn tối thiểu mà UNESCO khuyến nghị là 10 m²/người, tức là thành phố cần tăng gấp 20 lần diện tích cây xanh công cộng mới đạt mức tối thiểu đó. Việc đầu tiên là phải giảm bê tông hóa, tăng cường mảng xanh, nói nôm na là quy hoạch lại để chừa chỗ cho nước thoát.
Với những khu vực đất trũng, vùng ven sông rạch vẫn có thể xây dựng đô thị với yêu cầu tỷ lệ không gian xanh mặt nước cao hơn, chứ không phải là cấm hoàn toàn như một số ý kiến. Tuy nhiên, nên hạn chế xây dựng dày đặc, thay vào đó ưu tiên làm hồ điều tiết, công viên, mặt nước điều hòa. Không gian dành cho nước bao gồm hệ thống sông, kênh, rạch phải được khơi thông liên kết, tránh tình trạng mương cống bị tắc nghẽn. Nếu Thành phố có nhiều công viên và mặt đất thấm nước, khi mưa lớn, nước chảy chậm lại và thấm xuống đất nhiều hơn, giúp giảm đỉnh lũ đô thị. Đồng thời nước mưa bổ cập thêm cho tầng nước ngầm bên dưới, hạn chế tình trạng sụt lún đất do thiếu nước ngầm. Đây là giải pháp “thuận thiên” giúp giảm ngập bền vững, lại cải thiện vi khí hậu đô thị.
Thứ tư, vấn đề ngập không thể giao khoán cho một phía nào, phải tăng cường hợp tác công - tư và quy định rõ trách nhiệm về môi trường cho các nhà đầu tư và có sự phối hợp đồng bộ giữa chính quyền, doanh nghiệp và cả cộng đồng dân cư. Nhà nước cần tạo cơ chế để khu vực tư nhân tham gia tích cực vào các dự án chống ngập, đồng thời giám sát họ thực hiện đầy đủ trách nhiệm xã hội.
Tôi cũng đề xuất nguyên tắc “hạ tầng phải đi trước”: Mọi dự án khu đô thị mới hoặc chỉnh trang đô thị,
“
Thành phố nên đưa vào luật, yêu cầu bắt buộc nhà đầu tư phải xây dựng xong hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đảm bảo (đường sá, cống thoát nước, cấp điện nước, công viên, trường học…) rồi mới được bán nhà cho dân.
Không thể để tình trạng doanh nghiệp chỉ lo xây nhà bán lấy tiền, còn hạ tầng thì làm sơ sài khiến người dân và ngân sách công phải gánh hậu quả. Thành phố nên đưa yêu cầu này vào luật lệ rõ ràng thay vì trông chờ lòng tự giác của nhà đầu tư.
Cụ thể, có thể áp dụng cho từng giai đoạn, ví dụ một dự án 18.000 căn hộ chia thành 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn 6.000 căn hộ, vậy thì trước khi được quyền mở bán cho từng giai đoạn 1 2 3… thì hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội phải được hoàn thành tương ứng đảm bảo cho nhu cầu sử dụng của từng giai đoạn, thì mới được phép mở bán
Thứ năm, cải cách cơ chế đánh giá tác động môi trường và quy hoạch đô thị theo hướng đồng bộ, bền vững hơn. Như đã phân tích, hiện nay hai quy trình này tách rời nhau dẫn đến nhiều bất cập. Tôi kiến nghị chuyển việc thẩm định đánh giá tác động môi trường của các dự án đô thị về cho cơ quan quản lý quy hoạch đô thị (ví dụ Bộ Xây dựng hoặc Sở Quy hoạch Kiến trúc) đảm nhiệm, thay vì do ngành tài nguyên môi trường làm riêng lẻ. Khi tích hợp như vậy, mỗi dự án mới sẽ được xem xét trên bức tranh tổng thể, đảm bảo không gây tác động xấu đến hệ thống thoát nước và môi trường chung quanh. Đồng thời, quá trình phê duyệt quy hoạch đô thị cũng cần bổ sung các tiêu chí chặt chẽ hơn về chống ngập, thích ứng biến đổi khí hậu. Ví dụ, tiêu chuẩn cốt nền tối thiểu, mật độ xây dựng tối đa ở vùng trũng phải được quy định khoa học dựa trên số liệu dự báo ngập trong 50 - 100 năm tới. Việc cải cách này nhằm đồng bộ hóa quy hoạch và bảo vệ môi trường, đảm bảo phát triển đô thị đi đôi với an toàn trước nguy cơ ngập úng.
* Ông có thông điệp chính nào muốn gửi gắm tới cộng đồng và chính quyền TP.HCM trong công cuộc chống ngập này?
- Tôi muốn nhấn mạnh rằng, vấn đề ngập lụt đô thị không phải vô phương cứu chữa. Điều quan trọng là chúng ta phải thay đổi tư duy và hành động một cách khoa học, bài bản. TP.HCM cần coi chống ngập như một mục tiêu phát triển bền vững lâu dài chứ không chỉ là nhiệm vụ trước mắt. Những giải pháp tôi đề xuất từ ứng dụng công nghệ số, điều chỉnh quy hoạch không gian, cải thiện hạ tầng xanh, cho đến hoàn thiện cơ chế quản lý đều phải được triển khai đồng bộ thì mới phát huy hiệu quả tổng thể.
Nếu định hướng đúng và quyết tâm cao, tôi tin rằng chúng ta sẽ kiểm soát được hoàn toàn vấn đề ngập lụt đô thị, biến nguy cơ thành cơ hội để xây dựng TP.HCM thành một đô thị xanh, đáng sống và thích ứng tốt với biến đổi khí hậu. Đây không chỉ là câu chuyện kỹ thuật mà còn là cam kết về chất lượng sống cho thế hệ hiện tại và tương lai.
“
Vấn đề ngập lụt đô thị không phải vô phương cứu chữa. Điều quan trọng là chúng ta phải thay đổi tư duy và hành động một cách khoa học, bài bản.
Bên cạnh đó, Thành phố cũng cần kiến tạo chính sách và cơ chế khuyến khích toàn xã hội cùng hợp tác, ví dụ như mỗi căn hộ trên cao có ý thức cam kết tạo một mảnh vườn nhỏ trên ban công và mỗi căn nhà phố hoặc biệt thự đều tạo một mảnh vườn không gian xanh tối thiểu 2 mx 2m trong sân hoặc trên mái... Điều đó sẽ giúp xã hội hóa giúp cải thiện chất lượng môi trường và giảm bớt tình trạng bê tông hóa đô thị.