Nghị quyết 98 sửa đổi sẽ tạo sức bật mới cho “đầu tàu” TP.HCM
Mới đây, Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết 368/NQ-CP ngày 14/11/2025, thống nhất nội dung dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết 98/2023/QH15 - văn bản đang tạo khung cơ chế, chính sách đặc thù cho phát triển TP.HCM.
Với mục tiêu tạo đột phá phát triển, Nghị quyết 98 hướng tới việc khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh của TP.HCM, một “đầu tàu” kinh tế để phát triển nhanh, bền vững. Cùng với đó là khơi thông nguồn lực, huy động mạnh hơn nguồn lực xã hội, đầu tư nước ngoài, đổi mới sáng tạo để phát triển Thành phố.
Tuy nhiên, sau sáp nhập địa giới hành chính, TP.HCM mở rộng rất nhiều cả về diện tích, dân số, quy mô hành chính. Điều này đặt ra câu hỏi: các cơ chế đặc thù trong Nghị quyết 98 có còn “tương xứng” với quy mô mới hay không? Khi một đơn vị hành chính thay đổi không chỉ về quy mô mà còn cả về tầm vóc, sứ mệnh sẽ rất cần làm mới Nghị quyết 98 để phù hợp điều kiện phát triển mới.
Ông Phan Văn Mãi - Phó Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương nói rằng mặc dù Nghị quyết là “cơ chế vượt trội”, nhưng khi triển khai vẫn phải theo quy trình thông thường làm giảm tính đột phá. Hơn 2 năm sau khi ban hành, TP.HCM chưa huy động được nhiều nguồn lực xã hội và đầu tư nước ngoài như kỳ vọng. Vẫn còn vướng mắc trong việc tạo điều kiện để doanh nghiệp tham gia ngay từ đầu dự án, đặc biệt là trong việc đầu tư, phát triển hạ tầng, dẫn đến việc “chờ” thay vì làm chủ động. Về nhà ở xã hội, cơ chế hoán đổi giữa nhà ở xã hội và nhà thương mại vẫn “loay hoay”, chưa rõ ràng, gây khó cho doanh nghiệp và người có nhu cầu. Mô hình TOD được đề ra trong Nghị quyết 98 nhưng tiến độ rất chậm, chưa “nhúc nhích” nhiều. Chưa kể một số cơ chế liên quan tổ chức chính quyền (số lượng, chức năng) có thể không còn đúng hoặc không tối ưu trong cấu trúc mới…

Nói tóm lại, những chính sách trong dự thảo Nghị quyết 98 sửa đổi khi được thông qua tới đây không chỉ gỡ rào cản và khơi thông nguồn lực, mà còn tạo động lực thể chế, kinh tế - xã hội để TP.HCM bứt phá theo con đường riêng. Cụ thể, dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 98 lần này tập trung xử lý năm nhóm điểm nghẽn lớn nhất đang cản trở sự phát triển của TP.HCM:
Thứ nhất điểm nghẽn về nhà đầu tư chiến lược và dự án chiến lược. Dự thảo lần này cho phép Thành phố được chỉ định và lựa chọn trực tiếp nhà đầu tư chiến lược nếu chỉ có một nhà đầu tư đáp ứng yêu cầu, đồng thời mở rộng danh mục lĩnh vực được phép kêu gọi, giúp rút ngắn đáng kể thời gian triển khai.
Việc cho phép Thành phố vận dụng linh hoạt quy hoạch, sử dụng quy hoạch chung hoặc quy hoạch do doanh nghiệp tài trợ cũng là cách tháo nút thắt quan trọng, khắc phục tình trạng dự án “nằm chờ” do quy hoạch chi tiết chưa được phê duyệt. Những điều chỉnh này không chỉ khắc phục tình trạng “thủ tục cản trở đầu tư” mà còn tăng sức hấp dẫn của TP.HCM đối với các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn lớn có năng lực tài chính và công nghệ cao.
Thứ hai điểm nghẽn liên quan các dự án đầu tư bị tồn đọng, kéo dài gây lãng phí nguồn lực. Nhiều dự án chậm tiến độ do vướng thu hồi đất, bồi thường hoặc ách tắc trong thanh toán các hợp đồng BT khi không đủ quỹ đất. Dự thảo lần này bổ sung hai cơ chế quan trọng: Mở rộng quỹ đất được dùng để thanh toán BT và cho phép ký phụ lục hợp đồng để xác định lại quỹ đất thanh toán; đồng thời mở rộng phạm vi dự án được áp dụng cơ chế chuẩn bị thu hồi đất. Những điều chỉnh này giúp tháo gỡ các dự án BT chuyển tiếp, rút ngắn thời gian giải phóng mặt bằng cho các dự án hạ tầng quan trọng, qua đó giải phóng nguồn lực đang bị “đóng băng” và thúc đẩy tiến độ đầu tư của TP.HCM.
Thứ ba thực trạng hiện nay, bộ máy quản lý nhà nước còn chồng chéo, một số cơ quan thiếu chủ động trong quyết định, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Dự thảo đề xuất điều chỉnh một số cơ chế, chính sách để giảm chồng chéo, rườm rà, đồng thời trao quyền chủ động hơn cho chính quyền địa phương trong việc quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền. Việc phân cấp, phân quyền được thực hiện đồng bộ với giám sát, kiểm tra, đảm bảo minh bạch, tránh lạm quyền hoặc né tránh trách nhiệm, đồng thời tạo động lực cho các cơ quan chủ động sáng tạo trong triển khai các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt cho doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh về tiếp cận vốn, mặt bằng, nhân lực chất lượng cao. Có thể kể đến như cải thiện cơ chế tín dụng, thuê đất, đào tạo nghề; ưu đãi thuế, phí và hỗ trợ pháp lý; đồng thời thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Cùng đó, khuyến khích đầu tư vào R&D, công nghệ mới; xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp kết nối doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và FDI.
Cuối cùng là điểm nghẽn về khuôn khổ thể chế cho phát triển vùng và thương mại tự do. Hệ thống logistics, cảng biển và thương mại quốc tế của TP.HCM cùng vùng Đông Nam Bộ lâu nay vẫn thiếu một khuôn khổ pháp lý đủ mạnh để khai thác lợi thế khu vực.
Nếu các chính sách được sớm thông qua và đưa vào thực tiễn sẽ không chỉ tạo lực đẩy về thể chế giúp mở đường cho Thành phố đột phá chiến lược mà còn tạo lực đẩy về phát triển kinh tế đô thị hiện đại, năng động cùng với kiến tạo đô thị thông minh, bền vững, tăng năng lực quản trị và phục vụ người dân. Khi những cơ chế này được thông qua, TP.HCM sẽ không còn phải “xin - cho” cho mọi dự án chiến lược, tạo điều kiện để thực hiện nhanh các siêu dự án về hạ tầng, kinh tế, xã hội như các tuyến đường vành đai, đường sắt đô thị, logistics cửa ngõ… Cho phép TP.HCM tự kiến tạo không gian phát triển riêng, phù hợp vai trò đô thị đặc biệt của quốc gia.
TP.HCM còn có thể bước vào cuộc chơi toàn cầu khi có Khu thương mại tự do (FTZ) sẽ là “hộ chiếu” để Thành phố kết nối mạnh mẽ với mạng lưới thương mại quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao. Đồng thời, kích hoạt các động lực tăng trưởng mới, giảm phụ thuộc vào mô hình phát triển truyền thống, chuyển sang nền kinh tế tri thức, kinh tế tuần hoàn.
Ngoài ra, chuyển đổi không gian đô thị, từ đô thị “trải rộng” sang “nén hiệu quả”, tiết kiệm đất, tạo hạ tầng tốt, giao thông thông minh. Phát triển đô thị xanh, không phát thải, tiết kiệm năng lượng, chuẩn bị cho mục tiêu đô thị carbon thấp. Giảm ùn tắc, ô nhiễm, tăng tính bền vững của không gian sống, nâng cao chất lượng đời sống dân cư…